RSS

Category Archives: Các Thánh

Không có tình yêu, các hành vi, dù sáng chói nhất, cũng không đáng kể gì.

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Chín 29, 2021 in Các Thánh

 

Các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người (Ga 1,51)

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Chín 29, 2021 in Các Thánh

 

Một kẻ sát nhân sám hối sắp được phong Chân phước

 Larry Peterson / Tóc Ngắn chuyển ngữ 

Ngày 28/08/2021

Một kẻ sát nhân sám hối sắp được phong Chân phước

TGPSG / Aleteia — Không bao giờ là quá muộn khi muốn tìm ân sủng của Chúa.

Cách thích hợp để giới thiệu câu chuyện của người đàn ông này, chính là sử dụng hai câu Phúc âm: Lc 15, 23-24, tường thuật sự trở lại của ‘Đứa con hoang đàng’: “Hãy đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!  Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.”

Vào ngày 24-2-1954, Jacques Fesch đã sát hại một cảnh sát và làm bị thương 3 người khác ở gần đó. Tội phạm thật rõ ràng. Trong quá trình cố ăn trộm từ một nhà buôn tiền, mọi thứ đã không diễn ra êm xuôi. Jacques bị kết tội giết người và bị kết án tử hình. Ngày 1-10-1957, anh bị xử tử.

Jacques sinh ra trong một gia đình giàu có. Cha của anh là một chủ ngân hàng thành công đến từ nước Bỉ. Ông cũng là một nghệ sĩ và một người vô thần, rất ít quan tâm đến cậu con trai. Được mẹ nuôi dưỡng thành tín hữu Công giáo, Jacques là một người hay mơ mộng. Anh cũng lười biếng và chẳng có tham vọng gì. Cha mẹ anh ly hôn khi anh 17 tuổi. Jacques trở nên khép kín, và có hạnh kiểm tồi tệ đến mức bị trường đuổi học. Cha anh đã giao cho anh một công việc tại ngân hàng của ông, nhưng Jacques, người đã từ bỏ đức tin Công giáo, bắt đầu ăn chơi và gặp rắc rối.

Bạn gái của Jacques là Pierrette đã có thai. Khi Jaques 21 tuổi, anh và Pierrette đã kết hôn trong một đám cưới dân sự. Anh nghỉ việc ở ngân hàng của cha mình, bắt đầu chè chén say sưa và không làm được việc gì có ý nghĩa. Anh bỏ bê vợ con của mình, và có con với một người phụ nữ khác.

Jacques lúc đó 24 tuổi. Anh đã có vợ và một con gái, và một đứa con khác nữa với tình nhân. Anh quá mệt mỏi căng thẳng nên đã ngỏ lời xin người cha giàu có của mình mua cho anh một chiếc thuyền để đi Tahiti. Cha anh từ chối. Không hy vọng thoát khỏi cuộc sống mà anh đã tạo ra cho chính mình, Jacques Fesch mua một khẩu súng và toan tính đi ăn cướp của một nhà buôn tiền.

Tên người buôn tiền là Alexander Silberstein. Fesch đánh vào đầu hắn, nhưng Silberstein đã bấm chuông báo động. Một cảnh sát tên Jean Vergne ở gần đó đã chạy đến hiện trường. Jacques, chạy ra khỏi hiện trường, quay lại và bắn trả dữ dội vào viên cảnh sát đang lao tới. Jean Vergne chết tại hiện trường. Ba người chứng kiến ​​bị thương. Jacques Fesch bị bắt vài phút sau đó khi anh cố gắng chạy vào tàu điện ngầm.

Tội ác này đã tạo ra một cơn chấn động. Các bài báo về sự tàn bạo này bùng nổ trên khắp nước Pháp, và đám tang của viên cảnh sát bị giết đã xuất hiện trên tất cả các bản tin truyền hình. Báo chí theo dõi phiên tòa của Jacques, và bầu không khí “kịch tính” đã khiến cả nước theo dõi diễn tiến phiên tòa sát sao cho đến hồi kết. Vào ngày 6-4-1957, Jacques Fesch bị kết án tử hình vì (các) tội ác của mình. Cách hành quyết ở Pháp là xử tử hình bằng máy chém.

Jacques bị biệt giam tại nhà tù La Sante ở Paris. Khi vị tuyên úy nhà tù lần đầu tiên tiếp cận người đàn ông bị kết án, Jacques đã đuổi ngài đi. Nhưng vị tuyên úy vẫn tiếp tục nỗ lực, và sau cùng hai người trở nên thân thiết. Trong thời gian này, một người bạn cũ của Jacques đã được thụ phong linh mục. Ngài bắt đầu đến thăm anh. Và còn một nhân vật thứ ba nữa đã khiến Jacques hoán cải, chính là luật sư của anh. Tên ông là Baudet, một người Công giáo sùng đạo.

Với Chúa, mọi sự đều có thể

Ba nhân vật này đã làm việc cùng nhau như những công cụ của ân sủng ban xuống từ trời cao. Người đàn ông bị kết án tử này bắt đầu xem xét lại cuộc sống của mình. Khi nhìn nhận mình đã gây ra nỗi đau và thống khổ cho quá nhiều người, anh đã đi vào một hành trình hoán cải. Jacques đã trở lại với đức tin Công giáo của mình, đã ôm lấy nó với cả con tim.

Jacques bấy giờ đã coi phòng giam của mình như một tu viện. Anh đọc tiểu sử tâm linh của Thánh Phanxicô Assisi và Thánh Têrêxa thành Lisieux. Anh thường xuyên liên lạc với gia đình, đặc biệt với người anh trai và mẹ kế của anh. Anh viết nhật ký tâm linh hằng ngày – mà một ngày kia sẽ thành cuốn sách thu hút trí tưởng tượng của nhiều người. Anh đã làm hòa với vợ vào đêm trước khi chết. Vào ngày 1-10-1957, gần 6 tháng sau khi bị tuyên án, Jacques Fesch đã bị xử tử vì tội ác của mình.

Pierrette – vợ của Jacques, và Veronica – con gái của anh, đã tìm cách công bố những bức thư của anh như là điển hình của ơn cứu độ. Lúc đầu, không ai quan tâm. Nhưng với sự giúp đỡ của nữ tu Veronique Dòng Cát Minh và linh mục Augustin-Michel Lemonnier, họ đã xuất bản các tác phẩm của anh. Từ những năm 1970 cho đến hôm nay, những tác phẩm này đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều người.

Vào ngày 21-9-1987, Đức Hồng y Jean-Marie Lustiger – Tổng Giám mục Paris – đã mở một cuộc điều tra cấp giáo phận về cuộc đời của Jacques Fesch (nhằm khởi sự tiến trình vận động Giáo hội phong chân phước cho anh). Năm 1993, án phong thánh cho anh chính thức được mở tại Rôma, mang lại cho Jacques danh hiệu Tôi tớ của Chúa.

Chúng tôi đã mở đầu bài viết này bằng hai câu của dụ ngôn “Đứa Con Hoang Đàng”, một Phúc âm về sự tha thứ. Chúng tôi sẽ kết thúc bài viết này bằng hai câu khác cũng của Phúc âm Luca, phản ánh sự hoán cải đáng chú ý nhất mọi thời đại. Kẻ trộm lành Dismas đã nói với Chúa Giêsu khi Ngài bị treo trên thập giá:

“Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Đức Giêsu nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23, 42-43)

Vâng, đối với Chúa, lòng thương xót và sự tha thứ luôn hằng tồn tại đến muôn đời.

Larry Peterson (Aleteia)
Tóc Ngắn (TGPSG) chuyển ngữ

Nguồn: https://tgpsaigon.net/bai-viet/mot-ke-sat-nhan-sam-hoi-sap-duoc-phong-chan-phuoc-64100

 
 

Bằng nước mắt và niềm tin, thánh nữ Mônica được Thiên Chúa yêu thương nhậm lời

“Hãy cầu nguyện cùng với Thánh nữ Mônica”

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Tám 25, 2021 in Các Thánh

 

Ngày 20/08: Thánh Bênađô, viện phụ, tiến sĩ Hội thánh

 

Lm. Giuse Đinh Tất Quý 

Ngày 20/08: Thánh Bênađô, viện phụ, tiến sĩ Hội thánh

THÁNH BERNAĐÔ
TU VIỆN PHỤ TIẾN SĨ HỘI THÁNH

1. Đôi hàng tiểu sử

Thánh Bernađô sinh năm 1090 tại lâu đài Fontaine-les-Dijon, nước Pháp. Nhờ sinh trưởng trong một gia đình thượng lưu và gia giáo, Bernađô sau này đã trở thành người bặt thiệp biết xử sự khôn ngoan với mọi người. Trong số 7 anh em, Bernađô là người con thứ ba. Cậu được gia đình cưng chiều hơn cả vì có tư cách nết na và đạo hạnh hơn các anh em.

Tới tuổi khôn, Bernađô được cha mẹ cho theo học tại trường các thầy kinh sĩ ở Chatillon-sur-Seine. Nhờ sự rèn cặp của các thầy, Bernađô đã dần dần bỏ được tính rụt rè và câu nệ thái quá. Năm 16 tuổi giữa lúc cuộc đời đang lên với nhiều hứa hẹn thì bà thân mẫu của Bernađô từ trần khiến cậu phải trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần nặng nề khiến cậu trở nên trầm lặng và suy tư. Nhưng rồi bỗng người ta thấy cuộc đời của chàng thanh niên ấy xoay hẳn một góc 180o. Chàng đứng lên, cương quyết chống lại mọi thử thách và quyến rũ của gia đình và bạn bè để dâng mình phụng sự Chúa trong dòng Xi-tô. Không những thế Bernađô còn lần lượt lôi cuốn được các anh em và cả ông thân sinh cùng nhiều người khác theo gương mình vào dòng.

Năm 1115 thầy được cử làm tu viện trưởng Clairvaux một chi nhánh của dòng Xi-tô. Đây là một dịp để thầy hy sinh hãm mình nhiều hơn, dù yếu đuối và sức khỏe rất mỏng manh thầy cũng không chịu thua kém ai trong sự ăn uống kham khổ. Ngài còn mắc chứng đau bụng kinh niên. Tuy nhiên Ngài vẫn cố gắng tham dự các buổi phụng vụ như mọi người khác. Chỉ khi nào không chịu nổi cơn đau Ngài mới bỏ cộng đồng.

Nhận thấy tu viện trưởng Bernađô là người có đầy nhân đức và uy tín nên đức Giám mục Guillaume de Champeaux cho ngài được nhận chức linh mục và sai ngài đi giảng thuyết ở nhiều nơi. Ngài đã vâng lời vui vẻ ra đi. Nhờ đức khiêm nhường sâu thẳm, Chúa đã ban cho Ngài nhiều ơn lạ như nói tiên tri, làm nhiều phép lạ. Hết nhiệm vụ Ngài lại trở về nhà dòng phục vụ. Trong 38 năm làm bề trên, Ngài lập thêm được 68 tu viện chi nhánh của Clervaux. Ngài viết nhiều tác phẩm để bênh vực đức tin, truyền bá lòng yêu mến Chúa và đức bác ái.

Sau khi tận tụy và nỗ lực làm việc cho sáng danh Chúa, thánh nhân đã qua đời tại Clairvaux ngày 20 tháng 8 năm 1153 lúc ba giờ chiều ngày thứ năm, thọ 63 tuổi.

Mười năm sau, các tu viện trưởng họp lại lập án xin phong thánh cho cha Bernađô. Ngày 18 tháng 1 năm 1174, án được đức Alexandro III châu phê. Và năm 1830 Đức Piô VIII tôn phong Ngài lên hàng tiến sĩ Giáo hội.

2. Cuộc sống chứng nhân

Như đã nói ở trên, Bernađô là một người rất khiêm nhường và thánh thiện cho nên Chúa đã thưởng công cho Ngài. Chúa đã ban cho Ngài nhiều ơn lạ như nói tiên tri, làm nhiều phép lạ.

Đây là một giai thoại nổi tiếng khi Ngài ở Clairvaux. Hôm ấy nhà dòng hết muối. Cha Bernađô liền gọi một thầy tên là Guibert đến và bảo:

– Con hãy lấy con lừa (vì đây là con vật duy nhất mà tu viện sở hữu) và đi ra phố mua muối.

– Xin Cha con tiền để trả – thấy Guiber nói.

– Con ơi thánh – Bernađô trả lời -, đã khá lâu Cha không còn tiền cũng không còn vàng. Nhưng trên cao kia có Đấng giữ túi tiền và kho tàng của Cha!

Nghe nói thế thầy Guiber suýt nữa phì cười, nhưng thầy không thể không lưu ý Cha thánh điều này:
          – Thưa Cha, nếu con đi với hai bàn tay không thì con cũng trở về chắc chắn với hai bàn tay không.

– Đừng sợ con ạ, hãy tin tưởng. Đấng giữ kho báu của Cha sẽ ở với con và người sẽ tìm cách giúp con có những gì cần thiết để làm xong công tác.

Guiber cúi đầu nhận phúc lành từ tay vị tu viện trưởng và dẫn con lừa ra đi. Các mối nghi ngờ của thầy không hoàn toàn tan biến. Nhưng khi thấy sắp băng qua cửa thành thì có một vị Linh mục đến gần và hỏi:

– Thầy từ đâu đến và đi đâu vậy?

Guiber không do dự thú nhận sự túng thiếu tột độ của tu viện sự bối rối hiện nay của thầy. Rất cảm động, vị Linh mục dẫn thầy về nhà và cho thầy nửa thùng muối và một số tiền là 30 xu (tương đương với 300 quan Pháp thời nay).

Hãy tưởng tượng xem niềm vui của thầy Guiber lớn như thế nào. Thầy trở về lại tu viện và chỉ còn việc phải làm là ngay lập tức kể lại câu chuyện cho bề trên của thầy nghe.

– Cha đã nói rõ với con, cha Bernađô đáp, và cha lặp lại với con điều đó: Đối với người Kitô hữu không có cái gì khác ngoài đức tin!

Lịch sử cũng còn ghi, Ngài lòng sùng kính Mẹ Maria rất lạ lùng. Truyền thuyết cho hay: Mỗi khi đi ngang qua ảnh tượng Đức Mẹ, thánh nhân thường hay chào Mẹ bằng câu: “Kính chào Mẹ Maria!” và một ngày kia, Đức Mẹ đã đáp lại lời chào của ngài: “Chào con, Bernađô!” Bằng cách này, Đức Mẹ cho biết tình yêu và lòng sùng kính thánh Bernađô đã dành cho Đức Mẹ thật lớn lao chừng nào; và Đức Mẹ cũng hài lòng biết bao!

Xin được kết thúc bằng chính lời của thánh Bernađô trích trong bài giảng về sách Diễm Ca Của Ngài: “Khi Thiên Chúa yêu, thì Người không muốn điều gì khác hơn là được yêu: Thật vậy, Thiên Chúa yêu, thì Người không nhằm điều gì khác ngoài việc được yêu lại, vì Người biết ai yêu mến Người thì sẽ được hạnh phúc nhờ chính tình yêu đó.”

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

————————————————–

Ngày 20/08:

Thánh Bênađô
Viện phụ, Tiến sĩ Hội thánh

Với ơn Chúa người ta có thể làm được mọi sự miễn là con người biết cộng tác hữu hiệu với ơn Chúa. Thực vậy ơn Chúa đã hướng dẫn Bênađô tìm kiếm những giá trị cao siêu nhất, đã hun đúc Ngài thành một tu sĩ chiêm niệm thời danh và thành một chiến sĩ nhiệt thành hoạt động cho Giáo hội.Bênađô sinh ra trong một lâu đài tại Fontaine-les-Dijon năm 1090. Nhờ sinh trưởng trong một gia đình thượng lưu và gia giáo. Bênađô sau này đã trở thành người bạn bặt thiệp biết xử sự khôn ngoan với mọi người. Trong số 7 anh em, Bênađô là thứ ba ; cậu được gia đình chiều đãi hơn cả vì có tư cách nết na và đạo hạnh hơn các anh em. Đàng khác Bênadô còn được bà thân mẫu A-let quý mến cách riêng vì một câu chuyện chiêm bao có liên quan tới con bà. Câu chuyện mộng mị đó như sau:

Một tối kia bà Alét mơ thấy trẻ Bênadô đang nô đùa, bỗng hoá thành một con chó cất tiếng sủa vang. Bà đem hiện tượng chiêm bao đó kể lại cho mọi người nghe và ai nấy đều nghĩ đó là điềm báo sau này sẽ trở thành một nhà giảng thuyết đại tài.

Tới tuổi khôn, Bênadô được cha mẹ cho theo học tại trường các thầy kinh sĩ ở Chatillon-sur-Seine. Nhờ sự rèn cặp của các thầy, Bênadô đã dần dần bỏ được tính rụt rè và câu nệ thái quá. Tính nhút nhát đó đã khiến cậu rất sợ hãi khi phải ra trước công chúng; vì thế mà có lần Bênadô đã phải bực mình kêu lên: “Thà rằng tôi chết đi còn hơn nói trước công chúng hay đến trước mặt một người ngoại quốc”. Năm 16 tuổi, giữa lúc cuộc đời đang lên với nhiều hứa hẹn thì thân mẫu của Bênadô từ trần khiến cậu phải trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần khiến Bênadô càng trở nên thầm lặng và suy tư. Nhưng rồi người ta thấy chàng thiếu niên cương quyết đó chống lại mọi thử thách và quyến rũ của gia đình để vào dòng Xi-tô. Không những thế Bênadô còn lần lượt lôi cuốn được các anh em và cả ông thân sinh cùng nhiều người khác theo gương mình vào dòng.

Người ta kể lại rằng: Ngày kia người em út của Bênadô là Nivard đang chơi đùa với các trẻ em thì người anh cả bảo cậu rằng: “Các anh đi đây và nhường lại cho các em cả gia nghiệp, em có bằng lòng không?” Người em đáp lại: “Em không muốn thế, sao các anh chiếm nước trời còn để đất đai lại cho em”. Ít lâu sau người em cũng vào dòng.

Bênadô từ ngày dấn thân vào đời sống mới, luôn luôn tự hỏi mình: “Hỡi Bênadô, người vào đây để làm gì?”. Để nhắc nhở mình sống đúng với lý tưởng đã chọn, câu hỏi vắn tắt làm như phương châm cho đời sống, đã giúp thầy Bênadô siêng năng làm việc và làm một cách chu đáo. Một hôm các thầy xin Bênadô nghỉ ngơi để cho các thầy khác gặt lúa bởi vì thấy thầy yếu và không quen. Nhưng thầy khóc lóc xin Chúa cho mình có thể gặt lúa với anh em. Năm 1115 thầy được cử làm tu viện trưởng Clairvaua, một chi nhánh của dòng Xi-tô. Đây là một dịp để thầy hy sinh hãm mình nhiều hơn, dù yếu đuối và sức khỏe rất mỏng manh, thánh nhân cũng không chịu thua kém ai trong sự ăn uống kham khổ. Ngài còn mắc chứng đau bụng kinh niên. Tuy nhiên, Ngài cũng cố gắng theo các buổi phụng vụ như mọi người khác. Chỉ khi nào không chịu nổi cơn đau Ngài mới bỏ cộng đồng.

Nhận thấy tu viện trưởng Bênadô là người có đầy nhân đức và uy tín nên Đức Giám mục Guillaume de Champeaux truyền chức linh mục cho Ngài và ủy đi giảng thuyết ở nhiều nơi. Tuy thích sống trầm lặng trong tu viện nhưng Ngài đã vâng lời ra đi vui vẻ. Nhờ đức khiêm nhường sâu thẳm, Chúa đã ban cho Ngài nhiều ơn lạ như nói tiên tri, làm nhiều phép lạ. Hết nhiệm vụ, Ngài lại trở về nhà dòng phục vụ. Nhờ thánh nhân, nhà dòng thêm số và hợp thời. Trong 38 năm làm bề trên, Ngài lập thêm được 68 tu viện chi nhánh của Cơ-lec-vô. Ngài cũng viết nhiều tác phẩm để bênh vực đức tin, truyền bá lòng yêu mến Chúa và đức bác ái. Từ bé, Ngài vốn có lòng tôn sùng mầu nhiệm Chúa xuống thế làm người thì bây giờ Ngài cũng năng suy niệm mầu nhiệm ấy. Nhận thấy thánh nhân là người có trí thông minh và tài giảng thuyết cũng như giảng hòa nội bộ. Năm 1145 – Ngài kịch liệt phản đối vua ở miền nam nước Pháp. Lúc còn thanh niên, Ngài rất sợ ra trước công chúng nhưng nhờ ơn Chúa, nay Ngài cảm thấy cương quyết và can đảm nhiều.

Một hôm Ngài tới miền Sens để gặp A-bê-la người mê trí thức và khoa học đời, trước mặt cả cộng đồng giáo sĩ, Ngài phản đối A-bê-la: “Một người công giáo lầm lạc còn nguy hiểm hơn là người theo tà giáo”. Bênadô không phản đối việc trau dồi tri thức nhưng cha nhận đó là phương tiện truyền giáo, Ngài nói: “Người ta không khuất phục tà giáo bằng khí giới nhưng bằng biện luận”. Sau cùng cha Bênadô đã góp phần vào việc tranh đấu bảo vệ mồ thánh Chúa khỏi tay người Hồi giáo. Tuy thành công và danh tiếng nhiều nhưng thánh nhân vẫn khiêm tốn. Đôi khi không làm phép lạ và người ta hỏi thì Ngài chỉ trả lời: trông cậy ở Chúa và Chúa làm còn tôi không có gì đâu.

Sau khi tận tụy và nỗ lực làm việc cho sáng danh Chúa, thánh nhân đã qua đời tại Cơ-lec-vô ngày 20 tháng 8 năm 1153 lúc ba giờ chiều ngày thứ năm, thọ 63 tuổi.

Mười năm sau, các tu viện trưởng họp lập án xin tuyên thánh cho cha Bênadô. Ngày 18 tháng 1 năm 1174, đức Alexangdro III chuẩn phê án. Và năm 1830 Đức Piô VIII tôn phong Ngài lên hàng tiến sĩ Giáo hội.

Nguồn: https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-20-08-thanh-benadovien-phutien-si-hoi-thanh-50430

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Tám 20, 2021 in Các Thánh

 

Những Trang Sư Phạm Của Don Bosco

NHẬP ĐỀ

Cuốn sách này là một bổ sung cho tập sách “KHOA SƯ PHẠM CỦA THÁNH GIOAN BOSCO” đã được xuất bản trong loạt sách này Don Bosco là nhà sư phạm, nhưng ngài không phải là một lý thuyết gia, mà là một nhà thực hành. Ngài đã chỉ để lại rất ít trang giấy về phương pháp của mình. Muốn hiểu phương pháp của ngài , phải xem ngài hành động

Trong viễn ảnh này, chúng tôi nghĩ nên thu thập một số bản văn của ngài, kể lại cách ngài hành động, hoặc những lời khuyên nhủ của ngài dành cho những người làm việc với ngài. Chúng ta sẽ thấy rằng, ngay từ tuổi thiếu niên, sau một giấc mơ ngài đã điều chỉnh phương pháp để tiếp xúc với bạn bè của mình và phương pháp này là không có liên hệ với cách hành động của ngài sau này khi đã trưởng thành.

Nhưng phải nhớ rằng các trang sách này đã được viết ra hơn một trăm năm trước đây, trong một môi trường tôn giáo và xã hội không còn là môi trường sống của chúng ta ngày nay. Sao chép lại những sự kiện và những thái độ của thời đó sẽ là chuyện đáng buồn cười đối với những người thời đai chúng ta. Nhưng theo cảm hứng đã hướng dẫn hành động và phương pháp giáo dục của ngài, sẽ là điều rất có lợi cho những ai đang chăm lo cho thanh thiếu niên.

Tiểu sử

THÁNH GIOAN BOSCO

Gioan Bosco sinh ngày 16-8-1815 tại xóm Becchi, làng Castelnuovo d’Asti (nay là Castelnuovo Don Bosco) tỉnh Torino, thuộc gia đình nghèo và mồ côi cha khi mới lên hai.

Mẹ Gioan là Margherita, bà đã sớm dậy con biết lao động ngoài đồng áng và nhất là biết nhìn thấy Thiên Chúa qua những hiện tượng thiên nhiên.

Khi lên chin Gioan đã có một giấc mơ đầy tính tiên tri: nhờ sự hướng dẫn và trợ giúp của Mẹ Maria, ngài sẽ giáo dục thanh thiếu niên hư hỏng thành người tốt, có ích cho xã hội và Giáo hội.

Mẹ Margherita đã phải rất khổ cực và vất vả để Gioan có thể đi học và đeo đuổi ơn gọi linh mục.

Gioan chịu chức linh mục ngày 5-6-1841. Cha linh hướng của ngài, cha Giuse Cafasso đã căn dặn: “Cha hãy rảo khắp thành phố và để ý nhìn chung quanh”. Nhờ đó vị linh mục trẻ đã nhận ra sự cùng khổ của người nghèo, nhất là của thanh thiếu niên.

Hình ảnh về nhà tù đã gây cho Gioan một ấn tượng sâu xa và ngài phải suy nghĩ. Bởi thế, sau khi đi thăm tù, ngài đã quyết định: “Tôi cần làm một việc gì đó để thanh thiếu niên khỏi phải vào tù”.

Thời bấy giờ, một số linh mục thường chờ đợi thanh thiếu niên tới nhà thờ hay phòng thánh để dạy giáo lý. Cần phải có những hình thức tông đồ mới: việc tông đồ lưu động, nơi các nhà hàng nơi cửa tiệm, nơi xưởng thợ, nơi công viên…Nhiều linh mục đã thử nghiệm. Chính Don Bosco cũng đã thử nghiệm.

Vào ngày 8/12/1841, đứa trẻ đầu tiên đến với Don Bossco là cậu Bartolomeo Garelli d’Asti. Ba ngày sau, 9 em khác cũng đến với cậu. ba tháng sau 25 em. Rồi vào mùa hè 1842, 80em. Thế là Nguyện xá đã bắt đầu.

Nhưng một số em không biết tìm đâu ra chỗ ngủ, ngoại trừ những nơi công cộng. Don Bosco đã nhận ra công việc cấp bách và quan trọng là lo chỗ ngủ cho những em đó.

Vị ân nhân đầu tiên của Don Bosco không phải là bà bá tước, nhưng chính là bà mẹ của ngài, một người nhà quê 59 tuổi, nghèo và mù chữ, nhưng đạo đức, đã nên Torino với ngài để lo việc giặt giũ và bếp núc.

Giữa những em sống với Don Bosco, có một số đã bày tỏ nguyện vọng “được trở nên như ngài”. Tu hội Salêdiêng ra đời, với tên gọi là Thánh Phanxico Sale.

Mùa thu năm 1853, xưởng thợ đầu tiên được thành lập. Chính Don Bosco đứng ra dạy nghề cho các em.

Ngày 20-6-1854. Tu hội Salêdiêng chính thức ra đời.

Ngày 30-11-1860, “đứa trẻ đầu tiên của Don Bosco” Micae Rua, trở thành linh mục. Vào cuối đời Don Bosco có thể nói rằng: gần ba ngàn linh mục đã xuất thân từ những con cái của mình.

Tháng 3-1864, đặt viên đá đầu tiên cho Đền thờ Đức Mẹ Phù Hộ tại Valdocco. Tám năm sau, Don Bosco khởi sự một “đền thờ” khác kính Đức Mẹ: “Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ”

Tháng 11-1875, những vị truyền giáo Salêdiêng tiên khởi lên đường đi Nam Mỹ. Cùng năm ấy các cộng tác viên”. Dòng Ba Salêdiêng ra đời.

Trước khi qua đời, Don Bosco đã nói với các cộng tác viên: “Không có lòng bác ái của các con, cha không làm được việc gì cả, nhờ lòng bác ái của các con, chúng tôi đã lau khô biết bao nước mắt và đã cứu được biết bao linh hồn”

Những công trình vĩ đại mà Don Bosco để lại cho Giáo hội là “HỆ THỐNG GIÁO DỤC DỰ PHÒNG”. Bí quyết của hệ thống này là “sống với thanh thiếu niên”, nhờ đó nhà trường được biến thành “gia đình”. Toàn thể hệ thống này có thể được tóm gọn lại trong ba chữ: lý trí, tôn giáo và lòng thương mến. Khi người ta không dọa nạt, nhưng trò chuyện, khi Thiên Chúa là “chủ nhà”, khi người ta không sợ hãi nhưng muốn điều tốt gia đình sẽ nẩy sinh.

Don Bosco qua đời sáng sớm ngày 31-1-1888. Với các tu sĩ Salêdiêng đang đứng chung quanh, ngài đã nói những lời này: “Các con hãy muốn điều tốt cho nhau như anh em. Hãy làm điều tốt cho mọi người, nhưng không làm điều xấu cho ai cả… Hãy nói với các thanh thiếu niên điều này: cha chờ đợi tất cả ở trên Thiên đàng”

  • CẢM HỨNG
  • MỘT GIẤC MƠ

Vào lúc lên chin tuổi, tôi đã có một giấc mơ. Giấc mơ này đã để lại một ấn tượng sâu  xa suốt đời tôi. Trong giấc ngủ, tôi thấy mình ở gần nhà mình, trên một sân rất rộng. Một số đông trẻ con tụ họp ở đó và đang chơi đùa. Đứa thì cười, đứa thì chơi, và có nhiều đứa chửi thề. Khi tôi nghe thấy những lời chửi thề như thế, tôi nhảy vào giữa bọn chúng và tay thì đấm, miệng thì la mắng, tôi cố sức bắt chúng im đi. Giữa lúc đó thì xuất hiện một người, diện mạo đáng kính, tuổi độ ngoài ba chục, ăn mặc rất sang trọng. Ngài mang một áo choàng trắng che kín cả người. Mặt mũi ngài sáng chói đến nỗi tôi không thể nhìn ngắm Ngài. Ngài gọi đích danh tôi và truyền dạy hãy đứng đầu đám trẻ đó. Rồi Ngài thêm rằng: “Không phải bằng những quả đấm, nhưng là bằng hiền từ và mến thương, con sẽ chiếm được tình bạn của chúng. Con hãy lập tức bắt đầu dạy cho chúng biết vẻ xấu xa của tội lỗi và sự tốt lành tuyệt hảo của nhân đức”.

Ngỡ ngàng và sợ hãi, tôi thưa với Ngài rằng tôi chỉ là một thằng nhỏ dốt nát đáng thương, không đủ khả năng để nói về tôn giáo với các đứa con trai kia. Lúc đó đứa trẻ thôi cãi nhau, thôi la hét và chửi thề, và chúng tôi đứng vây quanh vị đang nói với   tôi.

Chưa hiểu rõ Ngài muốn bảo tôi điều gì, tôi hỏi thêm:

  • Ngài là ai mà dạy tôi làm những điều không thể làm được như vậy?
  • Chính bởi vì là những điều xem ra không thể làm được, cho nên con phải vâng lời và phải có kiến thức để làm cho được
  • Ở đâu và nhờ phương tiện nào, con có thể đạt được kiến thức?
  • Ta sẽ cho con một bà giáo, nhờ bà hướng dẫn con sẽ trở nên người khôn ngoan, và không có bà thì mọi sự khôn ngoan đều sẽ là dại dột.
  • Nhưng thưa ngài, ngài là ai mà nói cho con như vậy?
  • Ta là con của bà mà má con dạy con kính chào mỗi ngày 3 lần.
  • Má con cũng dạy không được giao thiệp với những người không quen biết, nếu không có phép của má.
  • Tên của Ta hả? Con hãy hỏi mẹ Ta.

Lúc đó tôi thấy bên cạnh ngài là bà dáng điệu uy nghi, mặc một áo choàng, sáng rực từ trên xuống dưới, y như được dệt bằng những ngôi sao óng ánh. Nhận thấy tôi mỗi lúc mỗi thêm  lúng túng trong các câu hỏi và câu trả lời của tôi, nên bà làm hiệu cho tôi tới gần bà. Bà dịu dàng đưa tay dắt tôi và nói :

  • Con hãy xem kìa !

Tôi nhìn và thấy tất cả bọn trẻ kia đã biến đâu hết. Thay vào chỗ chúng, tôi thấy một số đông những dê con, những con chó con mèo, những con gấu và đủ thứ loài vật.

Bà bảo tôi :

  • Đó là môi trường hoạt động của con. Đó là nơi con phải làm việc. Con hãy trở nên khiêm nhường, mạnh mẽ và tráng kiện. Và tất cả những gì con thấy xẩy ra cho những con vật lúc này, con sẽ làm như thế cho con cái của mẹ!

Tôi quay ra nhìn các con vật, và thay vì những con vật dữ tợn, bấy giờ thấy xuất hiện những con chiên con  hiền lành. Tất cả đều nhảy nhót tung tăng, miệng kêu « be be » như muốn đón nhân vật kỳ diệu kia và má ngài.

Lúc đó tôi vẫn còn mê ngủ, và tôi bắt đầu khóc. Tôi xin nói cách nào cho tôi có thể hiểu, bởi vì tôi không thấy những điều đó có nghĩa làm sao. Lúc đó bà đặt tay lên đầu tôi và nói :

  • Con sẽ hiểu tất cả khi thời gian tới
  • Bà vừa nói xong, một tiếng động làm tôi thức dậy, và mọi sự đều biến đi hết.
  • Tôi ngẩn người ra hồi lâu. Tôi thấy hai bàn tay tôi vẫn đau vì đã đấm bọn trẻ kia, và mặt tôi thì bị đau vì những cái tát đã lãnh nhận. Rồi nhân vật kia và bà ấy, cùng với tất cả những gì tôi đã nói và đã nghe, tất cả đã ám ảnh tôi suốt đêm đó, đến nỗi tôi không thể ngủ lại được.
  • Sáng hôm đó tôi đã vội vã kể lại giấc mơ này, trước hết tôi kể cho hai anh tôi. Họ nghe và chỉ cười. Rồi tôi kể cho má và bà nội nghe. Mỗi người đưa ra một cách giải thích. Anh Giuse bảo tôi : « mày sẽ trở thành thằng chăn dê, chăn cừu và các con vật khác ». Má tôi thì nói : « Biết đâu con không trở thành linh mục ? ». Còn anh Antôn thì nói với giọng cứng cỏi : « Có thể mày sẽ trở thành một tướng cướp ! ». Bà nội không biết đọc biết viết, nhưng lại thông thạo giáo lý, bà nói một câu dứt khoát : « Không nên lưu tâm đến những giấc mơ ».

Tôi đồng ý với bà nội. Dầu sao từ đó tôi không làm sao gạt bỏ giấc mơ đó ra khỏi đầu óc tôi. Những gì tôi sẽ kể sau đó đã mang lại một vài ý nghĩa cho giấc mơ này. Tôi đã luôn giữ im lặng về các điều đó. Và thân nhân tôi cũng không để ý gì nữa.

Nhưng khi tôi đi Roma năm 1858 để bàn với Đức Thánh Cha về Hội Dòng Salêdiêng, ngài đã dạy tôi về tất cả mọi sự cách tỷ mỉ, cả những điều không có vẻ gì là siêu nhiên. Khi đó lần đầu tiên, tôi đã kể lại giấc mơ mà tôi đã có lúc lên chín hay lên mười tuổi. Đức Thánh Cha truyền cho tôi phải viết lại giấc mơ đó với đầy đủ chi tiết, đúng như tôi đã thấy, và để lại hầu khích lệ con cái trong Dòng mà tôi đi Roma lần đó để xin phép thành lập

  • NHỮNG TIẾP XÚC ĐẦU TIÊN VỚI CÁC THIẾU NHI :

ANH CHÀNG LEO DÂY MÚA RỐI

Các anh em đã nhiều lần hỏi tôi về việc tôi bắt đầu lo cho các trẻ em hồi tôi mấy tuổi.

Khi lên 10 tuổi tôi đã làm những gì mà tuổi đó cho tôi có thể làm. Thật rất giống với một khu bảo trợ sinh hoạt thiếu nhi. Nên nhớ rằng : tôi còn nhỏ lắm, thế mà tôi đã để ý tìm hiểu tính nết của các loại bạn bè. Tôi chỉ nhìn thẳng vào mặt một đứa, là nhiều khi tôi đã đọc được những dự tính trong đầu óc của nó. Nhân đó tôi được các trẻ cùng lứa tuổi yêu mến và kính sợ. Chúng nó tranh nhau xin tôi làm trọng tài, hoặc chọn tôi làm bạn thân. Phần tôi, tôi làm ích cho mọi người theo sự có thể, và không làm hại một ai. Các bạn tôi thích tôi lắm, bởi vỉ nhỡ có chuyện gì xích mích xẩy ra, tôi sẽ bảo vệ chúng. Tuy tôi còn nhỏ nhưng tôi có sức mạnh và can đảm khiến cho những tay lớn tuổi hơn tôi cũng phải kính nể, thành thử nếu xẩy ra tranh chấp hay gây lộn, thì bao giờ chúng cũng chỉ định tôi làm trọng tài, và mọi người bằng lòng chấp nhận sự phán quyết của tôi.

Nhưng điều làm chúng bu quanh tôi và bám lấy tôi như điên, đó là những chuyện mà tôi kể cho chúng nghe. Những truyện tích tôi đã được nghe ở các bài giảng ở nhà thờ và các giờ học giáo lý, rồi những sách mà tôi đọc, như « Truyện các vua nước Pháp », « Anh chàng Guérin tội nghiệp » « Cuộc phiêu lưu của Berthold và Bertholdin », đã mang lại cho tôi có thừa chuyện để kể cho bọn trẻ nghe. Hễ chúng thấy tôi là y như chúng chạy vội lại để xin tôi kể chuyện cho chúng nghe, mà tôi chỉ là thằng nhỏ mới biết đọc sách. Nhiều người lớn cũng ngồi lại với bọn trẻ để nghe tôi kể chuyện. Biết bao lần, khi đi qua đi lại Castelnuovo, hoặc ở giữa đồng ruộng, hoặc ngoài đồng cỏ, tôi đã cảm thấy cả trăm người chạy lại để nghe những câu chuyện do một cậu bé kể, mà cậu bé đó, ngoài một trí nhớ ra, chẳng có một chút kiến thức nào. Thế mà ở giữa những người đó, cậu bé lại được coi như một nhà thông thái đại danh. Đúng là « Trong nước những người mù thì anh chột là vua »

Vào mùa đông mọi người mời tôi vào ngồi ở chuồng bò với họ, để được nghe tôi kể chuyện. Tụ tập nhau như thế là những người đủ mọi lứa tuổi và đủ mọi người trong xã hội : ai cũng thích ngồi với tôi suốt buổi chiều như thế. Họ ngồi im để nghe trong suốt năm hoặc sáu tiếng đồng hồ. Leo lên một chiếc ghế đẩu, tay cầm cuốn « Truyện các vua nước Pháp », giống như một nhà hùng biện đáng thương, tôi đứng để đọc thật to, sao cho mọi người nghe và xem thấy tôi. Bởi vì những người đơn sơ này thường nói ra rằng họ tới nghe tôi giảng nên tất nhiên trước và sau khi nghe tôi đọc truyện, chúng tôi luôn làm dấu Thánh giá và đọc một kinh Kính mừng.

Trong mùa hạ, nhất là vào những ngày lễ  nghỉ, những người ở các làng xung quanh và đôi khi cả những nơi khác tập họp lại. Và những khi đó mọi sự diễn ra cách trang trọng hơn. Tôi cống hiến cho mọi người những buổi nghe truyện có xen vào những trò vui mà tôi đã học được.

Ở chợ và nơi các chợ phiên thường có những tay rao bán thuốc và những anh chàng leo dây múa rối. Tôi đến coi và chăm chú dò xét từng cử chỉ của họ. Về nhà tôi luyện tập các trò của họ, tập đi tập lại cho tới khi có thể so tài với họ. Các bạn hãy tưởng tượng những kiểu nhào lộn, những cú nhẩy nguy hiểm, những cái lao mình xuống trong loại thể dục này…các bạn có thể không tin một thằng nhỏ 10 tuổi như tôi, mà đã thành thạo các trò ảo thuật, đã thực hiện được « cái nhảy liều chết », đã làm được trò chơi chim én, và chạy bằng hai bàn tay. Tôi đi lại nhẩy múa và khiêu vũ trên sợi dây như một anh chàng leo dây múa rối chuyên nghiệp.

Theo những gì tôi đã làm trong các ngày nghỉ  lễ, các bạn có thể tưởng tượng ra những gì tôi đã làm các ngày khác.

Tôi đã để ý đến một cánh đồng cỏ ở Becchi, có trồng nhiều cây, trong số này có một cây lê rừng hiện nay vẫn còn đó. Cây này đã giúp ích cho tôi rất nhiều. Tôi cột một đầu dây thừng vào thân cây này và một đầu dây kia thì cột vào một cây khác, cách đó một quãng ngắn. Cạnh đó tôi đặt một chiếc bàn và một túi da lớn. Tôi trải một tấm thảm trên mặt đất để nhào lộn. Một khi chuẩn bị xong và khán giả há miệng chờ một trò gì mới lạ, tôi mời mọi người hãy lần chuỗi với tôi, rồi hát một bài thánh ca. Sau đó tôi trèo lên một chiếc ghế và đọc bài giảng của tôi, nghĩa là tôi lập lại những gì nhớ được từ bài diễn giảng Phúc Âm mà tôi đã nghe trong Thánh lễ ban sáng tại nhà thờ. Đôi khi tôi trích dẫn một tích truyện hoặc một gương lành mà tôi đã nghe, hoặc đã đọc trong sách. Bài giảng được kết thúc bằng một kinh nguyện vắn tắt, rồi tiếp đến là phần giải trí. Lúc đó, như tôi vừa nói, các bạn sẽ thấy nhà giảng thuyết biến thành anh chàng leo dây múa rối chuyên nghiệp.

Nào là các trò ảo thuật, các cuộc nhào lộn nguy hiểm, đi bằng hai tay, hai chân chống thẳng lên trời, rồi với chiếc túi da của tôi đã diễn ra các đề mục như các đồng tiền tôi nuốt vô miệng, rồi lại được tôi lấy ra từ mũi hoặc từ tai một khán giả ; các trái banh hóa ra nhiều, hột gà hóa ra nhiều, nước biến thành rượu vang, con gà quay đã bị chặt thành nhiều miếng mà lại sống lại, gáy lớn hơn trước. Đó là những trò chơi quen thuộc của tôi. Rồi tôi lại bước lên dây, đi lại như đi trên đất, tôi nhảy nhót ca vũ, khi thì treo lơ lửng bằng chân kia, đôi khi tôi bám hai tay hoặc một tay vào dây, rồi dựng ngược người lên. Sau vài giờ biểu diễn như thế, tôi không còn sức nữa, đám đông được giải tán để mỗi nơi về nhà lo công việc của mình. Những ai chửi thề, nói tục, hoặc từ chối tham dự các lễ nghi tôn giáo, thì lại bị loại ra không được dự các buổi họp này.

  • THỰC HÀNH
  • ĐÓN NHẬN BARTÔLÔMEÔ GARELLI

Tôi vừa đến ở tại « nhà chung » với một số linh mục khác, liền bị níu kéo bởi một nhóm thiếu niên chạy theo tôi trên các đường phố và nơi các quảng trường. Chúng theo tôi về tới phòng thánh trong nhà thờ của viện, nhưng tôi không thể trực tiếp lo cho chúng sinh hoạt.

Một việc bất ngờ và ý vị đã xẩy ra, nên dịp cho tôi tìm cách thực  hiện dự tình của tôi, lo chăm sóc các thiếu niên sống lang thang khắp thành phố và nhất là những em vừa ra khỏi nhà tù.

Ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm 8-12-1841, vào giờ như mọi ngày, tôi chuẩn bị mặc áo lễ, để dâng Thánh lễ, thì ông từ nhà thờ Giuse Comoti, thấy một thiếu niên đứng ở một góc. Ông liền bảo em tới giúp lễ cho tôi.

  • Tôi không biết.- em ấy trả lời cách ngượng ngùng.
  • Lại đây, tao muốn mày giúp lễ mà.
  • Tôi không biết, tôi chưa hề giúp lễ bao giờ hết.
  • Thằng khùng chưa ! – ông từ nói một cách tức giận.- nếu mày không biết giúp lễ thì vô đây làm gì ?
  • Vừa nói ông từ liền chụp lấy chiếc chổi lông gà và đánh túi bụi lên đầu lên vai em thiếu niên, khiến em cắm đầu bỏ chạy.

Tôi liền la lên :

  • Ông làm gì thế ? Tại sao lại đánh em ấy ? Em ấy có làm gì đâu ?
  • Tại sao nó vô phòng thánh nếu nó không biết giúp lễ ?
  • Ông đã hành động không phải lối.
  • Nhưng có hệ gì đến cha đâu ?
  • Hệ lắm chớ ! Đó là người bạn của tôi. Ông kêu nó lại đây ngay lập tức, tôi có chuyện phải nói với em ấy.
  • Đầu bò, đầu bò !

Ông từ vừa kêu vừa chạy theo em thiếu niên. Ông đoan quyết sẽ không xử tệ với em, và dẫn em lại gần tôi. Cậu bé bước tới, vừa run vừa khóc vì những cú chổi vừa nhận được.

Một cách hết sức tươi cười tôi hỏi em :

  • Em dự Thánh lễ chưa ?
  • Thưa không.
  • Vậy em hãy tới dự đi, sau đó tôi sẽ nói với em một chuyện làm em vui thích.

Em hứa với tôi. Tôi cố ý làm nhẹ đi nỗi cực lòng của em, và để em đừng có ấn tượng xấu về nhân viên của phòng thánh. Tôi đã dâng Thánh lễ, rồi cám ơn sau lễ như thường lệ, sau đó tôi dẫn em thiếu niên tới một phòng phía đầu nhà thờ.

Với nụ cười, và bảo đảm với em là em không phải sợ ai đánh hết, tôi hỏi em :

  • Em dễ thương của cha, em tên gì ?
  • Thưa tôi tên là Batôlômêô Garelli.
  • Quê em ở đâu ?
  • ở Asti.
  • Cha em còn sống không ?
  • Không, cha tôi chết rồi.
  • Thế má em ?
  • Má tôi cũng chết rồi.
  • Em mấy tuổi ?
  • Mười sáu tuổi.
  • Em biết đọc biết viết chứ ?
  • Thưa không biết gì hết.
  • Em rước lễ lần đầu chưa ?
  • Chưa..
  • Em đã xưng tội chưa ?
  • Có, khi tôi còn nhỏ xíu.
  • Bây giờ em có đi học giáo lý không ?
  • Tôi không dám đi.
  • Tại sao ?
  • Vì các bạn nhỏ tuổi hơn lại thuộc giáo lý, còn tôi lớn lại không biết gì. Bởi vậy tôi mắc cở không đi học giáo lý.
  • Nếu cha dạy riêng em, em có tới học không ? thưa, sẽ tới và thích lắm.
  • Em sẽ thích tới phòng này không ?.
  • Thưa, em thích tới, nếu người ta không đánh em.
  • Hãy an tâm, không ai đánh đập em hết. Trái lại em sẽ là người bạn của cha đây. Em sẽ chỉ gặp cha thôi, không gặp một người nào khác. Vậy khi nào em muốn tới học giáo lý ?
  • Khi nào tùy ý cha.
  • Chiều nay được không ?
  • Thưa được,
  • Ngay bây giờ có được không ?
  • Thưa được lắm ạ.

Thế là tôi đứng dậy làm dấu Thánh giá trước khi khởi sự, nhưng cậu bé không làm vì cậu không biết làm. Với giờ học giáo lý đầu tiên này, tôi chỉ lo dạy em biết cách làm dấu Thánh giá, nhận biết ra có Thiên Chúa là Đấng tạo thành muôn vật và tại sao Ngài lại tạo thành chúng ta. Cậu học trò của tôi có trí nhớ kém quá, nhưng nhờ chuyên cần và bền chí, sau vài buổi học diễn ra vào mấy ngày nghỉ, em đã học đủ các điều cần thiết để xưng tội một cách tốt lành và sau đó đã được rước lễ.

Một vài thiếu niên khác đã gia nhập lớp giáo lý với em này. Mùa đông năm ấy, tôi chỉ muốn lo cho vài thanh thiếu niên đã lớn, cần được dạy giáo lý chuyên biệt, nhất là những thanh niên vừa ra khỏi nhà tù.

Điều này đã cho tôi thấy một điều hiển nhiên là, một khi ra khỏi chốn tù tội, nếu các thanh thiếu niên đó gặp được một bàn tay nhân hậu, một người lưu tâm đến các em, tới bầu bạn với các em trong những ngày nghỉ việc, rồi tìm cách kiếm việc làm cho các em nơi những ông chủ lương thiện, và thỉnh thoảng tới thăm các em trong các ngày thường, thì chắc chắn các em sẽ sống một cuộc đời đàng hoàng, sẽ quên quá khứ của mình, và sẽ trở thành những Kitô hữu tốt lành và những công dân lương thiện.

Đó là ngồn gốc của Nguyện Xá chúng tôi. Khu sinh hoạt của các thiếu niên. Công cuộc này được Chúa chúc lành và tăng trưởng mau lẹ một cách tôi không bao giờ dám tưởng tượng

  • GẶP GỠ MICHEL MAGON

Tại nhà ga Carmagnola.

Một buổi chiều thu, trên đường từ Sommariva về nhà, tôi phải chờ ở Carmagnola hơn một giờ, để đón chuyến xe lửa đưa tôi về Tôrinô. Lúc đó đã quá 7 giờ chiều. Trời âm u, một làn mây mù đang gây lên một trận mưa lún phún. Điều này làm cho trời càng thêm mù mịt, đến nỗi chỉ cách nhau vài bước cũng không thể nhận ra mặt người nào. Một ánh đèn yếu ớt tỏa ra khắp nhà ga, không đủ soi sáng tới những chỗ xe đậu lại. Một đàn trẻ nhỏ chơi đùa và la hét, làm mọi người để ý. Thật ra chúng làm điếc tai những người ngồi chờ xe lửa. Những tiếng la hét như « chờ chút », « bắt lấy nó », « chạy bắt lấy thằng đó », « giữ lấy nó »…khiến các hành khách đỡ mơ màng.

Trong số các tiếng la hét đó, người ta nghe thấy có một tiếng nói trổi vượt hơn các tiếng khác. Thật giống như tiếng nói của viên chỉ huy, được các đứa khác lập lại, và được cả bọn vâng nghe, không đứa nào dám cãi lại. Lập tức tôi cảm thấy muốn biết thằng bé đang dõng dạc và tinh nhanh chỉ huy cuộc chơi giữa những tiếng ồn ào như vậy.

Michel và Don Bosco

Tôi nắm lấy cơ hội khi tất cả những đứa trẻ xúm lại xung quanh vị chỉ huy của chúng. Bước hai bước dài, tôi lao mình vào giữa bọn chúng. Tất cả các đứa khác sợ hãi bỏ chạy, chỉ một đứa đứng lại, tiến lại gần tôi, hai tay nắm lại và để trên hông, dáng điệu cương quyết, và cất tiếng hỏi :

  • Ông là ai mà vào cuộc chơi của chúng tôi thế này ?
  • Tôi là bạn của em.
  • Ông muốn gì ở chúng tôi ?
  • Nếu không phiền các em, tôi muốn cùng chơi với em và các em khác.
  • Nhưng ông là ai ? Tôi không quen biết ông.
  • Tôi đã nói, tôi là bạn của em. Tôi muốn chơi một chút với em và các em khác. Còn em, em là ai ?
  • Tôi ấy à ? Tôi là tướng chỉ huy khu đất này.- em bé nói tiếp với một tiếng nói nghiêm nghị và oang oang.- Tôi tên là Michel Magon.

Trong khi tôi nói chuyện với Michel thì những em khác đã chạy tán loạn vì hoảng sợ, nay đã lần lượt đến xúm quanh chúng tôi. Sau khi đã tươi cười nói mấy lời chào hỏi vui vẻ với các em này, tôi lại quay sang Michel và hỏi tiếp :

  • Michel yêu quý, em mấy tuổi ?
  • Thưa mười ba tuổi.
  • Em đã biết xưng tội chưa ?
  • Rồi, rồi. em vừa trả lời vừa cười.
  • Em có được rước lễ không ?
  • Thưa có, có được rước lễ và đã rước lễ.
  • Em đã học nghề gì chưa ?
  • Thưa đã học nghề làm biếng.
  • Trước đây em đã làm gì ?
  • Thưa đã đi học.
  • Em đã học hết lớp nào ?
  • Thưa đã học hết lớp ba sơ học.
  • Ba em còn sống không ?
  • Thưa ba chết rồi.
  • Má em con sống chứ ?
  • Dạ má con còn sống. Má làm thuê cho người ta, để kiếm tiền nuôi con và anh em con, nhưng con luôn luôn làm cho bà điên đầu.
  • Em tính làm gì sau này?
  • Con sẽ phải làm một cái gì nhưng chưa biết là cái gì hết

Cách ăn nói chân thành, tính vui vẻ và thông minh của Michel làm tôi thấy ngay những nguy hiểm lớn lao mà em sẽ gặp, nếu em cứ được thả lỏng như thế. Đằng khác tôi nghĩ rằng sự hoạt bát và tính đảm đang của em, nếu được đào tạo sẽ mang lại những thành quả rất đáng mừng sau này. Cho nên tôi lại tiếp tục hỏi em:

  • Michel yêu quý, em có muốn từ bỏ cuộc đời lêu lỏng này để bắt đầu học một nghề hoặc tiếp tục học chữ không?
  • Thưa chắc chắn là con muốn, em trả lời cách cảm động. Con không thích chút nào nữa cái cuộc đời khốn nạn này. Nhiều thằng bạn của con đã vào tù rồi và con sợ sẽ có ngày vào đó với chúng. Nhưng con biết làm gì bây giờ? Ba con chết rồi, má con thì nghèo, có ai giúp con đâu?
  • Chiều nay con sẽ đọc một kinh Lậy Cha cho sốt sáng, con hãy tin tưởng nơi Ngài, Ngài sẽ chăm lo cho cha, cho con và cho mọi người.
  • Tôi nói đến đây thì chuông nhà ga báo hiệu lần chót, tôi phải lên xe, không trì hoãn được nữa. tôi nói với Michel:
  • Con cầm lấy mẫu ảnh nhỏ này, và ngày mai con sẽ đi gặp cha Ariccio, cha phó họ đạo con. Con thưa với Ngài rằng vị linh mục cho con mẫu ảnh này muốn có những điều cần biết về hạnh kiểm của con.

Cậu nhận lấy mẫu ảnh thánh cách kính cẩn và nói:

  • Thế tên cha là gì? Cha ở đâu ? và Don Ariccio quen biết cha hả ?

Em hỏi tôi nhiều điều khác nữa, nhưng tôi không thể trả lời, vì xe lửa đã tới và tôi phải lên xe để đi về Tôrinô.

Sự can thiệp của cha phó.

Cậu Michel muốn biết ngay vị linh mục nói chuyện với mình là ai, cho nên thay vì để đến hôm sau, cậu đã lập tức đi tìm gặp cha Don Ariccio và nồng nàn trình bày với Ngài về tất cả những gì mình đã nghe được. Cha phó hiểu ngay được mọi sự và hôm sau, ngài đã viết cho tôi một lá thư, tường trình cặn kẽ về những “kỳ công” đã đánh dấu cuộc đời ông tướng Magon của chúng ta.

Thư viết rằng: “Cậu Michel Magon là một thiếu niên đáng thương, mồ côi cha, má cậu bé đã phải đi làm và nuôi sống gia đình, không thể coi sóc cậu: bởi vậy cậu bé suốt ngày đi chơi với lũ trẻ ngoài đường phố và nơi các quãng trường. Cậu bé có trí thông minh khá đặc biệt, nhưng tính thất thường và tính lơ dễnh của em đã khiến em bị đuổi khỏi nhà trường nhiều lần. Tuy nhiên, em đã học hết lớp ba với kết quả tốt.

Về đức hạnh, tôi thấy em có căn bản tốt và nết na đơn sơ; nhưng em khó tự chủ được mình. Ở nhà trường và ở lớp giáo lý, em là đứa phá phách thường xuyên. Hôm nào em vắng mặt, thì mọi sự được bình an; khi em đi khỏi, mọi người thấy dễ thở.

Tuổi của em, tình cảnh nghèo khó của gia đình em, tính tình và trí thông minh của đáng cho mọi người hảo tâm lo giúp em. Em sinh ngày 19-9-1845”

Dựa vào những điều cha phó của em cho biết như thế, tôi đã quyết định nhận em vào số các trẻ của nhà này, để em được tiếp tục học hành, hoặc học một nghề cơ khí. Thoạt khi em nhận được thư cho biết em được nhận vào nhà này, em nóng lòng muốn tới Tôrinô ngay. Em tưởng tượng sẽ được hưởng những vui thú của vườn địa đàng, và sẽ thành ông chủ những kho báu của thủ đô này.

Một tên du đãng dễ thương

Mấy hôm sau, tôi thấy Michel xuất hiện trước mặt tôi. Cậu chạy lại gặp tôi và thưa:

  • Thưa cha, con là Michel Magon. Cha đã gặp con ở nhà ga
  • Cha biết rồi, con. Con có tới đây với tất cả thiện chí không ?
  • Dạ thưa có, Con không thiếu thiện chí ạ.
  • Nếu con có thiện chí cha xin con đừng gây xáo trộn trong nhà này nghe !
  • Ồ, xin cha an tâm. Không để cha phải buồn vì con đâu. Trước kia, con đã ăn ở không phải, nhưng từ nay con không muốn tái diễn như thế nữa. Con đã có hai thằng bạn vào tù rồi, còn con…
  • Thôi con hãy can đảm lên ! Bây giờ con hãy cho cha biết con thích tiếp tục học hành hay con thích học nghề?
  • Con sẵn sàng làm theo ý cha muốn. Còn nếu cha để cho con được chọn thì con thích học hành hơn.
  • Giả như con được tiếp tục đi học thì theo ý con, con muốn làm gì sau khi đã hoàn thành việc học?
  • Nếu một tên du đãng…

Cậu vừa nói lời này vừa cúi đầu. Tôi giục :

  • Con hãy nói tiếp đi. Sao con lại nói : « Nếu một tên du đãng… »
  • Nếu một tên du đãng có thể tự cải thiện đủ, để trở thành một linh mục, thì con rất muốn làm linh mục.
  • Được lắm ! chúng ta sẽ coi anh du đãng có khả năng làm gì ? Cha sẽ cho con đi học. Còn việc con muốn trở thành linh mục, hay làm việc khác thì còn tùy vào những tiến bộ trong việc học của con, tùy vào hạnh kiểm của con và tùy vào những dấu hệu cho thấy con có ơn kêu gọi làm linh mục không.
  • Nếu những cố gắng của một thiếu niên đầy thiện chí có thể đạt được thành quả tốt, thì xin cha tin rằng cha sẽ không phải buồn phiền vì con.
  • GẶP DÔMINICÔ SAVIÔ

Những biến cố mà tôi sắp kể lại sau đây, tôi có thể trình bày với đủ chi tiết, bởi vì đó là những việc đã diễn ra trước mắt tôi và thường là trước sự có mặt của một số đông các thiếu niên, các em này có thể xác minh những việc đó.

Don Cuglierô khen ngợi cậu Dôminicô

Trong năm 1854, Don Cugliero mà tôi vừa nhắc đến trên đây, đã tới gặp tôi để nói về một trong những học sinh của Ngài, rất đặc biệt về trí thông minh và về lòng đạo đức. Ngài nói : « Trong nhà cha đây, có thể có những em học sinh giỏi không kém, nhưng cha khó mà tìm được một em có khả năng hơn và đạo đức hơn. Cha cứ nhận thử em, cha sẽ thấy đó là một ông thánh Louis »

Gặp gỡ lần đầu tiên

Hôm đó là ngày thứ sáu đầu tháng mười, còn sớm lắm, tôi thấy một cậu bé đi với cha cậu và tiến lại gặp tôi. Mặt mũi vui vẻ, dáng điệu tươi cười nhưng kính cẩn của cậu khiến tôi chú ý ngay. Tôi hỏi :

  • Con là ai ? Con ở đâu tới ?
  • Thưa con là Dominico Savio.
  • Don Cugliero, thầy của con đã nói với cha về con. Chúng con ở Mondoniô tới đây.

Lúc đó tôi đưa em ra một nơi và nói chuyện riêng về việc học hành và về đời sống của em. Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng nhau, em tin tôi, và tôi tin em.

Tôi nhận ra em có một tâm hồn sống trọn vẹn Thần Khí của Chúa và tôi đã ngạc nhiên không ít khi khám phá ra công trình mà ơn thánh của Chúa đã hoàn thành nơi một thiếu niên còn ít tuổi như thế.

Một tấm vải tốt

Sau khi cha con nói chuyện với nhau hồi lâu, và trước khi tôi gọi ba em tới, em đã nói với tôi: “Thế cha nghĩ sao? Cha có đưa con về Tôrinô để học hành không?

  • Đúng rồi, cha nghĩ đây là một tấm vải tốt.
  • Tấm vải này có thể dùng để làm gì?
  • Để may một chiếc áo thật đẹp chúng ta có thể dâng cho Chúa.
  • Vâng, con là tấm vải, cha hãy là ông thợ may đi. Cha hãy nhận con và cha sẽ sắm một chiếc áo thật đẹp cho Chúa.
  • Cha sợ sức khỏe yếu kém của con không chịu nổi việc học hành.
  • Xin Cha đừng sợ như thế. Cho tới nay, Chúa đã ban cho con sức khỏe và ân sủng. Ngài sẽ giúp con.
  • Nhưng sau khi học xong Latinh, con sẽ làm gì?
  • Nếu Chúa ban cho con ơn ấy, con rất ước ao trở thành linh mục.

Dôminicô được thâu nhận

  • Tốt lắm, bây giờ cha sẽ phải xem con có đủ lực để học không. Con hãy cầm lấy cuốn sách nhỏ này (đó là cuốn trong loại “Người Công Giáo đọc sách”). Hôm nay con học cho thuộc trang này, mai con sẽ tới trả bài cho cha nghe.

Nói xong tôi để em ra chơi với các trẻ khác và tôi bắt đầu nói chuyện với ba của em. Chỉ chừng 8 phút sau đó, Dôminicô tươi cười bước vào và nói với tôi.

  • Nếu cha muốn, con xin đọc thuộc trang này ngay bây giờ.

Tôi cầm lấy cuốn sách và rất bỡ ngỡ khi thấy rằng không những cậu bé đã thuộc lòng từng chữ cả trang sách, mà còn hiểu đầy đủ ý nghĩa trang sách nữa, tôi nói:

  • Hoan hô, con đã trả bài trước thời gian, thì cha cũng cho con biết câu trả lời của cha trước thời gian. Ừ cha sẽ đưa con về Tôrinô, và ngay từ bây giờ cha kể con vào số các thiếu niên của cha. Vậy con hãy lập tức bắt đầu cầu xin Chúa giúp hai cha con ta làm theo Thánh Ý Ngài.

Không biết làm gì hơn để tỏ sự vui sướng và lòng biết ơn, cậu bé nắm chặt lấy tay tôi, hôn nhiều lần, và sau cùng cậu nói:

  • Con hy vọng con sẽ ăn ở hết sức tử tế, để không bao giờ cha phải buồn phiền vì con
  • DON BOSCO VỚI CÁC THIẾU NIÊN PHẠM PHÁP.

Năm 1845 một nhà tù mới được mở ra ở Tôrinô: đó là nhà tù của Tổng Nha, một trung tâm cải huấn dành cho các thanh thiếu niên. Nhà tù này chứa được chừng 300 em. Don Bosco thường đến thăm nhà tù này, và ngài tìm cách kết thân với một số các thiếu niên này, thường bị tống giam vì tội trộm cắp hoặc vì sống lang thang.

Ít lâu sau lễ Phục sinh năm 1845, Don Bosco tổ chức 3 ngày tĩnh tâm với các thiếu niên bị giam trong tù. Các em đã tham dự cách tích cực. Sự hiền từ và lòng bác ái của trái tim ngài đã chinh phục cả những em phá phách nhất, và đã đưa các em tới lãnh nhận các bí tích, chỉ còn một vài em là không xưng tội rước lễ. Ngài đã đạt được một sự hối cải thành tâm nơi các em, đồng thời các em tỏ ra sự thương mến ngài cách sâu xa.

Don Bosco cảm động vì thiện chí của các em, nên ngài hứa với các em một chuyện khác thường. Ý tưởng đầu tiên nảy ra trong óc ngài là một cuộc du ngoạn đầy thích thú vì ngài nghĩ rằng sự không được vận động và thiếu tự do là hình phạt đau khổ và nặng nề nhất đối với các em thiếu niên này.

Ngài tới gặp ông giám đốc nhà tù và vào chuyện ngay:

  • Tôi tới đề nghị với ông một việc, Tôi hy vọng sẽ được ông chấp nhận.
  • Thưa linh mục, tôi sẽ làm tất cả những gì tôi có thể làm vui lòng ngài. Ông Giám đốc trả lòi:- Công việc của ngài làm đối với các tù nhân đã giúp đỡ chúng tôi nhiều lắm.
  • Thưa ông giám đốc, vậy thì tôi xin ông ban cho các em bất hạnh này một ân huệ, vì các em đã tỏ ra có hạnh kiểm gương mẫu trong mấy ngày qua, không ai phải buồn phiền gì các em. Tôi muốn dẫn các em đi du ngoạn, đi bộ cho tới Stupinigi. Chúng tôi sẽ khởi hành thật sớm và sẽ trở về lúc chiều tối: cuộc xuất du này sẽ sinh ích cho cả tâm hồn và thể xác các em.

Ông giám đốc sửng sốt, giật mình đánh thót một cái. Ông vội nói ngay:

  • Linh mục nói dỡn đấy chứ?
  • Thưa tôi nói hết sức nghiêm chình. Và tôi xin ông Giám đốc cứu xét điều tôi xin.
  • Linh mục quá biết là tôi phải chịu trách nhiệm về mỗi vụ trốn thoát?
  • Xin ông Giám đốc tin chắc rằng sẽ không có một em nào trốn thoát. Nếu ông đồng ý trao các thiếu niên này cho tôi, tôi cam kết sẽ dẫn về đầy đủ, không thiếu một em nào.

Cuộc tranh luận kéo dài. Don Bosco năn nỉ, còn ông Giám đốc thì luôn nhắc tới tính nghiêm khắc của kỷ luật nhà tù. Sau cùng, vì không dám lãnh trách nhiệm, nên ông ấy đồng ý xin ý kiến ông Bộ Trưởng nội vụ. và ông Giám đốc nhà tù đã giữ lời hứa đó.

Ông Bộ Trưởng Ratazzi không có những đức tính luân lý, nhưng không thiếu sự thông minh. Suy nghĩ một lúc về đề nghị của Don Bosco do ông Giám đốc trình bày, ông bộ Trưởng nói ông muốn gặp vị linh mục. Thế là kẻ thù và người bảo vệ của Dòng tu có dịp mặt đối mặt…

Don Bosco bước vào văn phòng ông Bộ trưởng với nét mặt đơn sơ và cởi mở thường ngày của Ngài, và ngài giữ được nét mặt như thế cả những khi tiếp xúc với những vị chức cao quyền cả. Ông Bộ Trưởng tiếp ngài với vẻ lịch sự và tò mò.

  • Thưa linh mục, tôi sẵn sàng chấp thuận đề nghị của linh mục, đã được đệ lên tôi vài hôm nay. Linh mục có thể thực hiện cuộc du ngoạn đã dự tính, chắc sẽ sinh ích cả về đức dục lẫn thể dục cho các thiếu niên bị giam. Tôi sẽ ban xuống những lệnh cần thiết. Công an mặc thường phục sẽ theo các em xa xa, để nếu cần họ sẽ giúp linh mục lập lại trật tự, và họ sẽ làm vũ lực nếu có những đứa bướng bỉnh không chịu trở về tù vào buổi chiều.

Ông Bộ Trưởng đã nói những lời này với một giọng cương quyết, với ý nghĩ là để thỏa mãn những mong ước của Don Bosco. Nhưng ngài đã mỉm cười khi nói đến công an. Ngài trả lời:

  • Thưa ông Bộ Trưởng, tôi rất biết ơn ông Bộ Trưởng đã có lòng tốt, nhưng tôi chỉ thực hiện những dự tính của tôi với điều kiện là: cho tôi được ở một mình với các em thiếu niên. Xin ông Bộ Trưởng hứa danh dự với tôi là không cho công an đi theo chúng tôi. Tôi xin lãnh nhận mọi rủi ro, và nếu xẩy ra chuyện lộn xộn, thì xin ông Bộ Trưởng cứ giam tôi vào tù.

Ông Bộ Trưởng tỏ ra hết sức rất kinh ngạc. ông lớn tiếng như kêu lên:

  • Nếu vậy thì đến tối linh mục sẽ không dẫn về đây một mống nào hết.
  • Thưa, như vậy là ngài không tin tôi. Cách cư xử của ngài không chấp nhận điều tôi xin.

Gay go quá! Cho phép hay không cho phép? Ông Bộ Trưởng Ratazzi tò mò muốn cho thí nghiệm coi. Đáng khác ông ấy tin tưởng nơi vị linh mục này… Bởi vậy sau cùng ông đã cho phép Don Bosco được làm điều ngài xin.

Đằng khác, ông tự nhủ: nếu có vài đứa trốn thoát, thì khó gì đâu? Chỉ vài ngày sau công an sẽ tóm được chúng và lại giam chúng vào lao xá.

Don Bosco đã vội vã trở lại nhà tù Tổng nha, để chuẩn bị các em vui hưởng cái ân huệ quá đặc biệt, mà người ta ban cho các em. Buổi tối trước ngày đáng ghi nhớ này, ngài tập họp các em lại và nói:

  • Các bạn yêu quý, tôi đưa tới cho các bạn một tin sẽ làm các bạn vui sướng. Để thưởng thiện chí mà các bạn đã bày tỏ, để thưởng hạnh kiểm tốt của các bạn từ ít lâu nay, và nhất là để thưởng sự đáp ứng tốt lành của các bạn đối với những nỗ lực nhỏ bé của tôi trong mấy ngày tĩnh tâm, tôi đã tới gặp ông Giám đốc lao xá, rồi đã tới gặp ông Bộ Trưởng Nội an, và tôi đã được phép đưa các bạn đi du ngoạn tại Stupinigi ngày mai.

Nghe mấy lời này, các em thiếu niên đáng thương đó đã reo hò vui vẻ, không bút nào tả được. Một lúc sau khi yên lặng và bình tĩnh trở lại, Don Bosco nói tiếp:

  • Các bạn thấy, đây là một ân huệ lớn lao. Đây là một ngoại lệ hiếm có, và có thể là duy nhất. Cho tới nay, chính quyền chưa cho phép như thế bao giờ.
  • Ông Bộ Trưởng muôn năm! Don Bosco muôn năm! Các em reo hò rất phấn khởi.
  • Đúng, hoan hô ông Bộ Trưởng! nhưng các em hãy nghe điều quan trọng này: Tôi đã hứa danh dự là tất cả các em, không trừ em nào, sẽ cư xử đoàng hoàng hết sức, đến nỗi chúng ta không cần có công an hay bảo vệ trông chừng chúng ta. Tôi cũng hứa danh dự là chiều mai tất cả các em sẽ trở về đầy đủ mặt, không thiếu một ai. Vậy tôi có thể an tâm về hạnh kiểm của các em chăng? Tôi có thể chắc chắn là không có em nào tìm cách trốn thoát chăng?

Tất cả đều đồng thanh trả lời:

  • Xin cha an tâm, chúng con sẽ tỏ ra rất đoàng hoàng tử tế.

Một trong những em lớn nhất tuyên bố: “nếu đứa nào tìm cách trốn, con sẽ trừng trị ngay lập tức, và con sẽ làm thịt như người ta vặt lông gà”. Một em khác còn nói dữ hơn: “Đứa nào gây lộn xộn con sẽ lấy đá chọi bể đầu cho mà coi” và một em lực lưỡng nhất nói thêm: “Thằng chó nào làm tổn thương danh dự của anh em, sẽ không thể sống trong nhà này”.

  • Đủ rồi! Don Bosco nói: – Các em ăn nói như thế không tốt, và làm tôi buồn. Tôi tin tưởng nơi tất cả các em. Tôi biết các em muốn làm vui lòng tôi, và không gây phiền hà cho tôi. Trong khi chờ đợi các em nên nhớ rằng tất cả thành phố Tôrinô sẽ để mắt đến chúng ta. Nếu trong chúng ta có một em cư xử không tốt, tất cả chúng ta và trước tiên là tôi, sẽ mất uy tín, mà tôi là người đã xin được đặc ân này cho các em. Rồi người ta sẽ có lý để nói rằng tôi thiếu khôn ngoan, và đã bị các em gài bẫy. Chính các em cũng sẽ bị tổn thương nhiều hơn, người ta sẽ gọi các em là những thiếu niên không thể tin tưởng được. mà thật ra trốn thoát như thế có lợi gì đâu? Chỉ sau vài ngày, người ta sẽ bắt lại được, và sẽ giam các em đó vào khu tù nghiêm ngặt hơn.
  • Trái lại, nếu các em đều cư sử đàng hoàng, và chiều tối các em sẽ trở về đây mà không gây khó khăn nào hết, thì biết đâu chính quyền lại không ban ân huệ này cho chúng ta một lần nữa, và như vậy, thỉnh thoảng chúng ta lại được hưởng những cuộc du ngoạn thú vị.

Nhưng trên đây chỉ là những lý lẽ loài người. các bạn còn biết một lý lẽ quan trọng hơn nhiều: mới đây các em đã long trọng thề hứa với Thiên Chúa, là sẽ tỏ ra đứng đắn và không mất lòng Ngài. Giờ đây, Ngài đang từ trời cao nhìn xuống các em, sẵn sàng chúc lành cho các em bây giờ và trong tương lai nếu các em giữ lời hứa với Ngài. Ngày mai, các em sẽ có dịp đưa ra những bằng chứng rõ ràng về sự quả quyết và lòng chân thành của mình. Vậy thì: luôn luôn giữ trật tự, không có bất tuân phục, không có cãi lộn đánh lộn. Các em hứa như vậy không?

  • Dạ, chúng con xin hứa! Lời danh dự, cha sẽ thấy chúng con như vậy.

Một em nói thêm: “cha sẽ là tướng tổng chỉ huy, nhân danh các bạn của con, con cam đoan với cha rằng chưa bao giờ một vị tướng sẽ có những binh lính ngoan ngoãn và kỷ luật như thế”

Sau khi được an lòng như thế, Don Bosco đã thông báo giờ khởi hành và giờ trở về. Rồi trước khi quay về Valdocco, ngài nói với các em:

  • Hẹn gặp lại các em sáng mai!

Các thiếu niên bất hạnh này đã nhảy mừng suốt cho đến tối, và đã tỏ ra bình tĩnh và lễ độ với các anh bảo vệ như chưa từng thấy bao giờ. Hôm sau dưới sự hướng dẫn của Don Bosco, các em đã lên đường đi Stupinigi, một làng có độ một ngàn dân cư, gần thành phố Sangone và cách thủ đô Tôrinô chừng 4 dặm (khoảng 6 km) về phía Tây Nam. Nơi đây có một lâm viên quốc gia. Linh mục Amaretti, cha sở họ, bạn thân của Don Bosco và cha Alasonatti, đã chờ sẵn cha con Don Bosco.

Ra khỏi nhà tù, các em sung sướng vui vẻ hưởng ánh nắng mặt trời và sự tự do. Dẫn đầu là một chú lừa chở lương khô. Các em tỏ lòng quý mến Don Bosco một cách cảm động: khi thấy bước đi đã hơi mệt, các em chia nhau vác những túi ăn trên lưng chú lừa và trong nháy mắt các em ép ngài ngồi trên lưng lừa, và thay nhau cầm cương dắt lừa đi.

Khi tới Stupinigi, Don Bosco dẫn các em vào nhà thờ, cử hành thánh lễ. Rồi trong ngày ngài đã dọn cho các em một bữa ăn ngon lành và một bữa quà lúc xế chiều. Suốt ngày các em đã có nhiều cuộc vui khác nhau.

Không bút nào tả được nỗi vui sướng rạng ngời trên khuôn mặt các em. Các em sung sướng chơi đùa trong những lối đi của lâu đài nhà vua, dưới bóng những cây to, trên bờ những ao hồ, và trong những đồng cỏ có điểm những bông hoa tươi đẹp.

Hạnh kiểm của các em không chê vào đâu được: không một cuộc cãi cọ nào làm vẩn đục niềm an vui của ngày đặc biệt này, Don Bosco không cần phải nhắc nhở hoặc la mắng để bảo vệ kỷ luật. Chiều hôm đó các em đã trở về ở nơi buồn thảm của mình, vẻ nhẫn nhục và ngoan ngoãn hơn trước kia.

Ông Bộ Trưởng nóng lòng chờ đợi kết qủa của cuộc xuất du. Mặc dù ông tin tưởng nhiều nơi Don Bosco, ông vẫn không cảm thấy an tâm. Phần Don Bosco cũng không muốn để mất thời giờ, nên đã vội tới gặp ông Bộ Trưởng, làm ông hết sức ngạc nhiên khi nghe kể lại mọi việc.

  • Thưa linh mục, tôi rất biết ơn đối với những gì ngài đã làm cho các thiếu niên tù tội của chúng tôi. Và tôi muốn chính miệng ngài nói cho tôi nghe, tại sao nhà nước không thể có cái ảnh hưởng mà ngài có đối với các em này?
  • Thưa ông Bộ Trưởng, sức mạnh mà chúng tôi có là một sức mạnh tinh thần, khác với sức mạnh mà nhà nước sử dụng để chỉ huy và sửa phạt. chúng tôi chú trọng nói với con tim của các em, và lời của chúng tôi là lời của Thiên Chúa.
  • Ông Bộ Trưởng hiểu rằng Giáo hội nắm trong tay một sức mạnh huyền bí, không do trần gian mà có, và quyền lực của con người không thể phá được.

Ông nói với Don Bosco;

  • Các ngài có thể ngự trị trong tâm hồn của giới trẻ. Chúng tôi không thể làm được như vậy. Đó là một lãnh vực dành riêng cho các ngài.
  • Ông Bộ trưởng đã nhân đó nhận ra hiệu lực của hệ thống giáo dục dự phòng trong việc giáo dục giới trẻ, dù là giới trẻ khó dạy nhất, đúng như Don Bosco trình bày với ông năm trước đó
  • LÝ THUYẾT
  • HỆ THỐNG DỰ PHÒNG TRONG VIỆC GIÁO DỤC TUỔI TRẺ

Đã nhiều lần tôi được yêu cầu trình bày bằng miệng, hoặc viết ra tư tưởng của tôi về phương pháp gọi là phương pháp giáo dục dự phòng, vẫn được sử dụng trong các nhà của chúng ta. Vì không có thời giớ rảnh rang, cho nên mãi tới nay tôi vẫn không thỏa mãn được sự mong ước đó, nhưng hôm nay, tôi có ý cho in bản nội quy vẫn được áp dụng theo truyền khẩu trong chúng ta, nên tôi nghĩ đây là lúc thuận tiện để trình bày mấy nét phác họa về hệ thống đó. Đây sẽ là như bản mục lục của cuốn sách nhỏ mà tôi đang biên soạn, nếu như Chúa cho tôi sống đủ lâu để hoàn thành. Cuốn sách này sẽ không có mục đích nào khác ngoài việc phục vụ cho nghệ thuật rất phức tạp của việc giáo dục thanh thiếu niên.

Tôi sẽ nói về bản chất của phương pháp giáo dục dự phòng và tại sao phải chuộng phương pháp này hơn, rồi sẽ nói về cách áp dụng và những lợi điểm của phương pháp này.

  • Bản chất của phương pháp dự phòng và tại sao nó phải được chuộng hơn các phương pháp khác.

Hai phương pháp đã được sử dụng trong công cuộc giáo dục thanh thiếu niên: Phương pháp dự phòng và phương pháp đàn áp

Phương pháp đàn áp ở tại sự làm cho các người bề dưới biết rõ luật pháp, rồi trông chừng để khám phá ra những kẻ phạm pháp và áp dụng những hình phạt mà họ đáng chịu. Khi áp dụng phương pháp này, thì lời nói và cái nhìn của bề trên phải luôn tỏ ra nghiêm khắc và còn có vẻ đe dọa nữa và bản thân bề trên sẽ phải tránh mọi tiếp xúc có vẻ thân tình với các người bề dưới.

Để gia tăng tầm quan trọng của quyền bính của mình, vị Giám đốc sẽ ít xuất hiện ở giữa các người dưới quyền mình, và hầu như chỉ với mục đích đe dọa và trừng phạt. Dễ dàng và ít nhọc mệt, phương pháp này trước hết chỉ thích hợp cho quân đội và nói chung là hợp cho những người lớn có lương tri, có khả năng hiểu biết và nhớ những gì do pháp luật và các quy định khác  ấn định.

Phương pháp dự phòng thì khác hẳn và có thể nói là đối lập với phương pháp trên đây. Bản chất của phương pháp dự phòng là làm cho hiểu rõ các lời dạy và các luật lệ của một tư thục và trông coi các học sinh để các em luôn sống dưới cái nhìn chăm chú của vị giám đốc, hoặc của các hộ trực (các giám thị). Các vị này nói năng với các em như những người hướng dẫn các em trong mọi tình huống, không ngớt khuyên bảo các em và sửa dạy các sai lỗi của các em một cách nhân hậu. Vậy chủ đích của phương pháp này là đặt các em vào cái thế không thể lỗi phạm được.

Phương pháp này hoàn toàn dựa trên lý trí, tôn giáo và tâm tình. Nhân đó nó loại trừ tất cả các hình phạt mạnh tay, Và nó muốn gạt bỏ những sửa phạt nhẹ nhàng.

Chúng ta phải chuộng phương pháp này hơn cả vì những lý do sau đây:

  • Các học sinh được bảo trước như thế sẽ không mất tinh thần, khi có những sai phạm và khi Bề trên biết những sai phạm của mình, các em sẽ không buồn bực về lời nhận xét, hoặc bị đe dọa một hình phạt, bởi vì sự sửa chữa phạt luôn luôn gồm có một sự cảnh báo thân tình và cảnh cáo đề phòng trước, để các em suy nghĩ và như vậy thường chiếm được trái tim của các em. Các em sẽ hiểu sự cần thiết của việc sửa phạt và có thể chính các em xin được sửa phạt
  • Lý do chủ yếu nhất, là sự lơ đễnh của các trẻ em, chỉ cần một giây đồng hồ là quên tất cả những luật lệ của kỷ luật và những hình phạt đe dọa các em. Nhiều khi một em sai lỗi thì đáng chịu một hình phạt mà không bao giờ em nghĩ tới, không có gì nhắc nhở điều đó cho em vào lúc em sai phạm, và chỉ cần một lời thân tình nhắc bảo em thì chắc chắn em đã tránh không phạm.
  • Phương pháp đàn áp có thể dẹp những sự lộn xộn, nhưng khó mà có thể sửa dạy các em sửa mình. Người ta để ý rằng các em không quên những hình phạt đã phải chịu, và thường các em có một kỷ niệm cay đắng về chuyện đó: các em muốn thoát ách, nếu chưa phải là muốn báo thù. Các em có thể làm bộ dửng dưng, nhưng nếu sống gần các em. Người ta sẽ thấy rằng tuổi trẻ nhớ dai ghê sợ lắm: các em dễ quên những sự sửa phạt do cha mẹ, nhưng rất khó quên những sự sửa phạt do các nhà giáo dục. Có những em đến tuổi già vẫn còn báo thù cách tàn nhẫn về những hình phạt đích đáng đã phải chịu khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Trái lại, phương pháp dự phòng chiếm được lòng các em; đối với các em, thầy hộ trực là một ân nhân lo bảo trước các em, làm cho các em nên tốt hơn, và tránh cho các em khỏi những phiền phức, những hình phạt và khỏi mất danh dự.
  • Phương pháp dự phòng sẽ đào tạo nên những học sinh biết suy nghĩ, để bất cứ lúc nào nhà giáo dục cũng có thể nói cho các em ngôn ngữ của trái tim, dù trong thời kỳ giáo dục, dù sau này. Nhà giáo dục đã chiếm được trái tim của các em sẽ có ảnh hưởng rất lớn với các em cả sau khi các em đã chọn nghề nghiệp, đã giữ những chức vụ công quyền hoặc bước vào giới danh thương, nhà giáo dục vẫn có thể tiếp tục khuyên bảo, cho ý kiến các em và ngay cả quở trách các em. Vì những lẽ đó và nhiều lẽ khác, phương pháp dự phòng phải được chuộng hơn phương pháp đàn áp
  • Áp dụng phương pháp dự phòng

Việc áp dụng phương pháp này dựa tất cả vào những lời của thánh Phaolo: “Đức bác ái thì nhân từ, nhẫn nhục, chịu đựng mọi sự, trông cậy mọi sự, gánh chịu mọi sự” Đức ái thì kiên trì và nhẫn nại, chịu đựng mọi sự, nhưng hy vọng mọi sự và gánh chịu mọi sự trái nghịch. Vậy chỉ người Kitô hữu mới có khả năng áp dụng phương pháp dự phòng một cách có hiệu quả. Lý trí và tôn giáo là những phương tiện mà nhà giáo dục luôn phải cầu cứu, phải giảng dạy và chính mình phải thực hành, nếu ông ta muốn các em vâng lời, và nếu ông muốn đạt được những thành quả mong muốn.

Điều này đòi nhà giáo dục phải hiến thân trọn vẹn cho việc giáo dục các em, và không bao giờ được nhận những chức vụ có thể làm ông lãng quên chức năng của mình. Trái lại, ông phải luôn ở với các em, tất cả những khi các em không bận công việc theo luật dạy, trừ khi có những người khác phụ tá cho ông theo nhu cầu.

Đức hạnh của các giáo sư, các trưởng xưởng và các thầy hộ trực phải đàng hoàng. Họ phải ý tứ tránh như dịch tễ bất cứ hình thức âu yếm thương riêng nào đối với các học sinh của mình và họ phải nhớ rằng sự lầm lạc của một người có thể gây nguy hại cho tất cả một viện chuyên lo về giáo dục. Người ta phải liệu sao để không bao giờ các em ở một mình với nhau. Hết sức có thể, bao giờ các thầy hộ trực cũng đi trước các em đến nơi hội họp, và sẽ ở đó với các em cho tới khi có người khác tới ở cạnh các em. Đừng bao giờ để các em ở nhưng không.

Hay để các em được tha hồ tự do chạy, nhẩy, la hét, thỏa chí. Thể dục, âm nhạc, ca hát, kịch nghệ, các cuộc đi dạo, tất cả sẽ giúp ích nhiều cho kỷ luật và sức khỏe thể lý cũng như sức khỏe tâm hồn các em. Chỉ cần để ý sao cho đề tài của các cuộc giải trí, những người tham dự, và những lời nói ở đó không có gì đáng phê bình.

Thánh Philip Nêri, người bạn của các thiếu niên đã nói: “Các em muốn làm gì cũng được, đối với cha, chỉ cần các em đừng làm điều gì có tội là đủ”.

Siêng năng xưng tội, siêng năng rước lễ và  dự Thánh lễ mỗi ngày, đó là những cột trụ để xây ngôi nhà giáo dục, nếu ta muốn gạt bỏ đe dọa và roi vọt. Không bao giờ cưỡng bức các em lãnh nhận bí tích, nhưng chỉ nên khuyến khích các em và lo cho các em dễ dàng hưởng nhờ các bí tích. Trong các buổi tĩnh tâm, những tuần tam nhật và cửu nhật trong các bài giảng và các giờ dạy giáo lý, chúng ta phải nêu cao vẻ đẹp, sự cao trọng và thánh thiện của một tôn giáo đang cung cấp cho ta những phương tiện quý báu là các bí tích, được sử dụng cách đơn sơ mà lại rất ích lợi cho xã hội dân sự, cho sự thanh thản nội tâm, và cho ơn cứu độ các linh hồn. Nhờ cách này các em sẽ giữ lòng quý mến các việc đạo đức này và sẽ tham dự cách tự ý, vui vẻ và có kết quả.

Phải hết sức cảnh giác để không cho sách báo, những đứa trẻ hoặc những người đáng nghi ngờ về luân lý nhập vào trong nhà. Chọn được một người gác cổng tốt sẽ là một ơn phúc cho các cơ sở giáo dục.

Mỗi tối, sau khi đọc kinh thường lệ và trước khi các em đi ngủ, cha giám đốc hoặc người thay thế ngài phải nói một vài lời thân ái với chung các em, và cũng đồng thời đưa ra một nhận xét hoặc một lời khuyên về điều nên làm hoặc nên tránh. Ngài phải gắng rút tỉa những bài học từ những việc xẩy ra trong nhà hoặc bên ngoài, trong ngày đó. Nhưng đừng bao giờ ngài nói quá hai hoặc ba phút. Bí quyết của nền đạo hạnh, của cuộc sống tốt lành trong nhà, và kết quả của việc giáo dục là chỗ này.

Phải gạt bỏ như một thứ dịch tễ dư luận muốn lui việc rước lễ lần đầu tới một tuổi khôn lớn hơn, bởi vì như thế sẽ rất tai hại cho tâm hồn ngây thơ của các em, ma quỷ sẽ đến ngự trị trong trái tim cả các em. Kỷ luật của Giáo hội thời nguyên thủy, muốn người ta phân phát cho các trẻ em số bánh thánh đã truyền phép mà người ta rước lễ còn dư trong dịp lễ Phục sinh. Xem thế đủ thấy Giáo hội ước ao cho các trẻ em sớm được dự phần vào tiệc thánh. Khi một em bé có khả năng phân biệt bánh thường và bánh thánh, và tỏ ra có những biểu hiệu khá đủ, thì không nên để ý đến tuổi của em nữa, mà hãy để cho Vua trên trời đến ngự trong tâm hồn diễm phúc của em.

Các sách dạy giáo lý khuyên siêng năng rước lễ. thánh Philip Nêri khuyên rước lễ 8 ngày một lần, và có thể nhiều lần hơn. Công đồng Tridentinô đã phát biểu rõ ràng và ước muốn rằng mỗi khi ta đi dự Thánh lễ thì cũng hãy rước lễ. Mà rước lễ đây không chỉ là rước lễ thiêng liêng nhưng là tử tế, sau khi được đào tạo theo những nguyên tắc này. Trở thành nơi nương tựa của gia đình mình và vinh dự của xứ sở mình, hiện nay các trẻ mà chúng ta đã đào tạo đang giữ những trọng trách lớn trong xã hội.

Sau cùng, nếu nhỡ ra có những em lọt vào tư thục với những thói xấu, các em đó cũng không thể làm hại các bạn bè của mình. Các em tốt sẽ không bị thương tổn do sự có mặt thường trực của thầy hộ trực sẽ đặt lại trật tự ngay, không để cho có thời gian, nơi chốn và cơ hội cho sự xấu tác hại.

  • Vài lời về các hình phạt

Phải sử trí thế nào về các hình phạt?

Nếu có thể thì đừng sử dụng hình phạt bao giờ hết. Tuy nhiên, nếu bó buộc phải sử dụng, thì nên nhớ mấy điều sau đây:

  • Sống giữa các học sinh, nhà giáo dục phải tìm cách làm cho các em yêu mến mình, nếu ông muốn các em kính trọng mình. Khi đó tỏ mặt không vui với một em, sẽ là một hình phạt rồi đó. Và đó là một hình phạt khuyến khích sự tranh đua, khích lệ chứ không làm cho các em ra người hèn.
  • Đối với các em, những gì ta sử dụng hình phạt sẽ được coi là hình phạt. Ta thường thấy rằng một cái nhìn thiếu thân tình sẽ có hiệu quả hơn là một cái tát đối với các em. Những lời khen khi các em đạt được kết quả tốt, những lời quở trách khi các em biếng nhác, đó đã là thưởng và phạt rồi.
  • Trừ những ngoại lệ rất ít có, không bao giờ nên phạt hay sửa dạy nơi công chúng, nhưng phải làm ở nơi riêng xa các em khác. Chúng ta cũng phải hết sức khôn ngoan và kiên nhẫn chờ cho các em được lý trí và đức tin soi sáng, hầu nhận ra sự lỗi của mình.
  • Bất cứ vì lý do gì, tuyệt đối phải tránh việc đánh đập, bắt quỳ trong tư thế làm các em đau đớn, tránh kéo tai hoặc những cách sửa phạt như thế, bởi vì có luật cấm, và bởi vì các hình phạt đó làm các em rất tức tối và hạ giá nhà giáo dục.
  • Vị Giám đốc sẽ nói cho các em biết cặn kẽ, về các điều luật, các phần thưởng và các hình phạt do kỷ luật dự trù, để các em không thể chữa mình rằng em không biết điều đó là điều truyền phải làm, hoặc điều cấm làm.

Nếu phương pháp này được thực thi trong các nhà của chúng ta, thì cha tin rằng, không phải dùng roi vọt hoặc các hình phạt tàn nhẫn khác, chúng ta vẫn đạt được những thành quả tuyệt hảo. Cha lo dạy các thiếu nhi từ khoảng 40 năm trời, cha không nhớ có dùng hình phạt đó khi nào hết. Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, cha đã đạt được không những là mức tối cần thiết, nhưng thật ra đã đạt được tất cả những gì mình mong ước; và đó là đối với những thiếu niên mà người ta không còn tin tưởng gì là sẽ đạt được một thành quả tàm tạm.

  • BỨC THƯ TỪ ROMA NGÀY 10 THÁNG 5 NĂM 1884 VỀ TÌNH HÌNH NGUYỆN XÁ.

Các con rất yêu quý của cha, trong Chúa Giêsu Kitô.

Ở gần hay xa, cha cũng luôn luôn tưởng nhớ đến các con, cha chỉ có một ước muốn, là thấy các con được hạnh phúc ỏ đời này và trong cõi vĩnh cửu. Nghĩ tưởng đó và ước muốn đó đã khiến cha viết thư này cho các con. Các con yêu dấu của cha, cha buồn vì phải ở xa các con: không nhìn thấy các con, và không nghe tiếng các con, cha cảm thấy một nỗi buồn mà các con không thể tưởng tượng được. Bởi vì cha đã muốn viết những dòng này từ một tuần nay, nhưng vì công việc bận rộn không ngừng, làm cha không viết được. Mặc dù chỉ còn ít ngày trước cha trở về với chúng con, cha vẫn nhờ lá thư này về trước, vì cha chưa đích thân về được. Đây là ngôn ngữ của một người thương các con cách dịu dàng trong Chúa Giêsu Kitô và là người có bổn phận phải nói với các con cách tự do như một người cha. Các con ưng cho cha nói như thế chứ? Các con hãy lắng nghe lời cha và sẽ thực hành những gì cha nói với các con.

Cha vừa nói: Các con là sự tưởng nhớ duy nhất và liên lỉ của tâm hồn cha. Vậy mà một trong những buổi tối gần đây, khi cha về phòng và sắp đi ngủ, cha bắt đầu đọc những kinh mà má cha đã dạy cha, thì không biết tại buồn ngủ hay tại một sự đãng trí – cha thấy như có hai cựu học sinh Nguyện Xá tiến ra trước mặt cha.

Một trong hai người tiến lại gần cha, chào cha cách thân tình và nói:

  • Thưa Don Bosco, cha nhận ra con không?
  • Có, cha nhận ra con.
  • Mà cha có nhớ con không ?
  • Cha vẫn nhớ con, và các bạn của con. Con là Valfre, con đã ở Nguyện Xá trước năm 1870.
  • Cha muốn thấy các thiếu niên của cha ỏ Nguyện Xá vào thời của con không ?- Người đó nói tiếp
  • Cha muốn lắm, con hãy tỏ cho cha xem. Cha sẽ vui thích lắm.

Lúc ấy Valfre tỏ cha cha thấy các thiếu niên, với khuôn mặt và tuổi của họ vào hồi đó. Cha có cảm tưởng mình đang ở Nguyện Xá thời xưa, vào giờ chơi. Tất cả những gì cha nhìn thấy đều là sinh hoạt, vận động, vui vẻ. Em thì chạy nhảy, em thì chào hỏi, em thì nhảy nhót. Chỗ này mấy em chơi ếch, chỗ kia chơi đuổi bắt, chỗ khác chơi đá banh. Chỗ này một nhóm mấy em xúm lại, mê man nghe một linh mục kể chuyện, chỗ kia, một giáo sĩ đang chơi « bắt bồ câu » với các em hoặc các trò chơi khác. Khắp nơi đầy tiếng hát, tiếng cười, chỗ nào cũng có các cha, các thầy hòa mình chơi với các em, và các em thì la hò vui vẻ. Một sự thân tình và tin tưởng lớn lao rõ ràng đang sống động giữa các em và các Bề Trên của chúng. Cha say sưa nhìn ngắm cảnh tượng này. Và Valfre nói với cha :

  • Cha coi, thân tình sinh ra thân ái, và thân ái sinh ra tin tưởng. Đó là cái mở rộng của trái tim : các thiếu niên trình bày tất cả mọi điều cho các thầy dạy, các Bề Trên và các thầy Hộ trực. Các em trở nên thành thật khi xưng tội và các khi khác. Các em ngoan ngoãn vâng lời những vị mà các em chắc chắn là được yêu thương.

Giữa lúc đó, một học sinh thứ hai bộ râu bạc phơ tiến lại gần cha và nói :

  • Thưa Don Bosco, bây giờ cha muốn biết và xem thấy các thiếu niên hiện nay ở Nguyện Xá không ? – Người vừa nói, đó là Giuse Buzzetti.

Cha trả lời :

  • Có, cha muốn thấy lắm, vì từ một tháng nay cha không gặp các em

Thế là anh ấy cho cha xem thấy Nguyện Xá và tất cả các con đang chơi. Nhưng cha đã không nghe thấy những tiếng cười tiếng hát, cha không nhìn thấy những vận động và sự linh hoạt của cảnh tượng hồi nãy.

Người ta đọc thấy trên nét mặt và cử chỉ của nhiều em sự buồn phiền, chán nản, quạu cọ, nghi kỵ nhau, làm cha rất đau lòng. Thật sự cha cũng thấy nhiều em chạy nhảy chơi đùa trong một niềm vô tư sung sướng. Nhưng các em khác đông hơn, đứng rải rắc, dựa vào các cột trụ nghĩ tưởng bông lông, nhiều em khác ở trên các cầu thang, các hành lang hoặc ỏ trên sân thượng, về phía vườn, trốn không chơi chung với các bạn bè của mình. Từng nhóm các em khác bách bộ cách chậm chạp, vừa nói nho nhỏ với nhau, vừa liếc nhìn chung quanh một cách nghi ngờ không tốt ; đôi khi các em này cũng cười, nhưng là những cái cười kèm theo những cái đưa mắt mà thánh Louis Gonzaga ở đó với mấy em chắc ngài cũng phải đỏ mặt tia tai. Trong số các em đang chơi đó, có một số em có vẻ uể oải, rõ ràng là mấy em đó không thích chơi đùa với bạn bè.

Người cựu học sinh của cha hỏi cha :

  • Cha thấy các thiếu niên của cha chưa ?
  • Cha thấy rồi. cha trả lời và thở dài.
  • Cha thấy mấy em khác bọn con ngày xưa quá hả !
  • Thật đáng buồn ! giờ chơi mà ươn ái như thế ư ?
  • Chính vì thế mà nhiều em tỏ ra nguội lạnh khi lãnh nhận các bí tích, rồi bỏ bê các việc đạo đức ở nhà thờ cũng như ở các nơi khác và các em tỏ ra tiếu phấn khởi, dù đang ở một nơi mà Chúa Quan Phòng ban cho họ dư đầy những ơn lành hồn xác và trong việc học hành. Rồi nhiều em không theo ơn gọi của mình. Cũng do đấy, họ tỏ ra vô ơn với các Bề Trên của mình, tụ họp nhau phê bình, sinh ra đủ thứ hậu quả đáng tiếc của tình trạng này.
  • Cha hiểu, bây giờ cha đã hiểu. nhưng làm thế nào để mang lại sự sống, vẻ linh hoạt, vui nhộn và sức sống tràn lan như xưa
  • Bằng đức bác ái !
  • Bằng đức bác ái ? Vậy các em không được thương mến đủ ư ? Con biết đó cha thương yêu các em lắm. con biết tất cả những gì cha đã chịu đựng từ 40 năm nay và còn đang gánh chịu bây giờ. Biết bao nhiêu mệt nhọc, bao nhiêu tủi nhục, bao nhiêu chống đối, bao nhiêu bách hại, cha đã vui chịu hết để lo cho các em có của ăn, có nhà ở, có thầy dạy, và nhất là để lo phần rỗi cho các em. Cha đã làm tất cả những gì cha biết và tất cả những gì cha có thể làm để lo cho các em. Các em là mối tình của đời cha.
  • Con không có ý nói về cha.
  • Vậy con nói về ai ? Về những người kế nhiệm cha ư ? Về các cha Giám đốc, các vị Giám học, các Giáo sư, các thầy Hộ Trực ư ? Con không thấy các cha và các thầy, như bị tử đạo vì học hành và vì làm việc đó sao ? Họ đã cống hiến những năm tháng trẻ trung của họ để phục vụ những em mà Chúa Quan Phòng ủy thác cho họ…
  • Con thấy, con biết. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Vẫn còn thiếu điều tốt hơn.
  • Đó là cái gì ?
  • Đó là không những các thiếu niên phải được yêu thương mà còn cần các em biết mình được yêu thương.
  • Như thế các em không có mắt. Các em không hiểu sao ? các em không thấy rằng chỉ vì tình thương mà người ta tận tụy hy sinh cho các em sao ?
  • Không, con xin nhắc lại rằng : như thế vẫn chưa đủ.
  • Vậy thì còn phải làm gì nữa ?
  • Các em phải được yêu thương trong những gì các em ưa thích. Các vị phải thích nghi với những sở thích của tuổi trẻ các em, để nhờ đó các em khám phá ra tình thương trong những sự mà tự nhiên các em không ưa thích tí nào, như kỷ luật, học hành, hãm mình riêng. Các em sẽ tập làm các việc này một cách vui vẻ và với tình yêu.
  • Con hãy nói rõ hơn cho cha nghe.
  • Cha đào tạo các thiếu niên từng ấy năm rồi, mà cha không hiểu sao? Cha hãy nhìn kỹ xem! Các cha và các thầy Salêdiêng của chúng ta ở đâu?

Cha đã nhìn và thấy rằng ít các cha và các thầy hòa mình với các em, và số tham gia chơi với các em lại còn ít hơn nữa. Các Bề Trên không còn là linh hồn của giờ chơi nữa, đa số các ngài vừa đi bách bộ vừa nói chuyện với nhau, không màng chi đến những gì các em đang làm; một số các cha các thầy coi các em chơi, nhưng không để ý gì đến các em; một số khác trông chừng các em xa xa, nhưng lại không cảnh cáo gì các em có lỗi; nếu có vị cảnh cáo các em, thì cử chỉ lại tỏ ra hăm dọa. Có lẽ mấy cha , thầy muốn nhập bọn với các em thiếu niên, nhưng cha thấy mấy em này tránh các thầy dạy và các Bề Trên.

Lúc đó anh bạn cha, người cựu học sinh của Nguyện Xá nói với cha:

  • Hồi xưa, ở Nguyện Xá bao giờ cha cũng ở giữa các thiếu niên, nhất là trong các giờ chơi. Cha còn nhớ những năm tươi đẹp đó chứ? Thật là như Thiên đàng, một thời kỳ mà chúng con vẫn nhớ mãi một cách cảm động, bởi vì hồi đó sự thân ái đã thay thế cho kỷ luật. Chúng con không có dấu diếm cha điều gì.
  • Đúng thế! Và hồi đó tất cả niềm vui cho cha. Các em tranh nhau để tói gần cha và nói năng với cha. Các em khao khát nghe lời cha khuyên và các em thực hành các lời cha dạy. Nhưng bây giờ con thấy đó: cha phải tiếp khách liên miên, công việc lại rất bề bộn và tình trạng sức khỏe yếu kém của cha, không cho cha tiếp tục như xưa nữa.
  • Đồng ý, như nếu cha không làm được, thì tại sao các Salêdiêng không bắt chước cha? Tại sao cha không nhấn mạnh và đòi hỏi các cha và các thầy phải cư xử với các thanh thiếu niên như cha đã làm xưa?
  • Cha đã nói, đã nói hết hơi, nhưng nhiều cha, thầy cảm thấy không đủ sức để chịu đựng những khó nhọc như xưa!
  • Đó, chính vì bỏ không làm điều nhỏ, họ đã đánh mất điều lớn, điều lớn là những khó nhọc của họ. Các cha, các thầy hãy thích những gì các em thích rồi các em sẽ thích những gì các Bề Trên thích. Khi đó sự nhọc mệt sẽ trở nên ngọt ngào.
  • Nguyên nhân của sự thay đổi hiện nay ở Nguyện Xá là một số các em không tin tưởng vào các Bề Trên của các em. Xưa kia các em hết sức cởi mở, các em yêu mến và mau lẹ vâng lời các cha, các thầy. Ngày nay, các em coi các Bề Trên là Bề Trên, chứ không coi các ngài là các người cha, các người anh và bạn của các em. Các em sợ, chớ không yêu mến các Bề Trên của mình nhiều lắm. Vậy nếu đào tạo để có một trái tim và một linh hồn, thì vì lòng mến Chúa Giêsu chúng ta phải phá đổ các hàng rào ngăn cách tai hại kia và thay vào đó một sự tin tưởng thân tình. Ước chi đức vâng lời hãy dẫn dắt các học sinh, như bà mẹ dẫn dắt đứa con nhỏ của mình. Khi đó, sự bình an và niềm vui sẽ ngự trị tại Nguyện Xá.
  • Nhưng làm thế nào để phá đổ bức tường ngăn cách này?
  • Phải sống thân tình với các em, nhất là trong giờ chơi, không có thân tình không thể chứng minh được tình thân ái và không chứng minh được tình thân ái thì không thể có tin tưởng. Ai muốn được thương yêu, thì phải chứng minh rằng mình yêu thương. Chúa Giêsu đã trở thành bé mọn với những kẻ bé mọn và Ngài đã mang lấy những sự yếu đuối của chúng ta. Đó là thầy dạy sự thân tình. Ông thầy mà người ta chỉ thấy ở bàn giấy, chỉ là một ông thầy thôi, không có gì hơn; nhưng nếu ông chia sẻ giờ chơi với các em, thì ông được coi như một người anh.

Một vị chỉ giảng từ tòa giảng, thì người ta sẽ nói rằng ngài chỉ làm việc bổn phận của mình, không hơn khôn kém, nhưng nếu ngài nói một lời nơi sân chơi, thì lời nói đó là lời của một người bạn. Biết bao tâm hồn đã trở lại với Chúa nhờ mấy lời chúng ta đã nói nhỏ với các em đó giữa lúc các em đang vui chơi? Ai thấy mình được thương yêu sẽ yêu thương. Và khi ta được yêu thì ta có thể đạt được bất cứ điều gì, nhất là với các em thiếu niên. Sự tin tưởng này tạo nên một luồng điện giữa các em và các Bề Trên của các em. Các em sẽ cởi mở, sẽ bày tỏ những gì các em còn thiếu và sẽ cho thấy các tật xấu của các em. Tình yêu này sẽ giúp các Bề Trên chịu đựng những nhọc mệt, những ưu phiền, những sự vô ơn, những sự trái tính, những khuyết điểm và những biếng nhác của các em. Chúa Giêsu Kitô đã không bẻ gãy những cậy sậy đã dập gãy, và Ngài đã không dập tắt tim đèn còn khói. Đó là khuôn mẫu của các con.

Như vậy sẽ không còn những người chỉ làm việc vì hư vinh, chỉ sửa phạt để trả thù lòng tự ái bị xúc phạm, và bỏ đi không trông chừng các em chỉ vì ghen ghét với ảnh hưởng của một anh em khác, cũng không còn những người muốn được các em quý chuộng và yêu mến một cách độc tôn, gạt bỏ tất cả các Bề Trên khác, cho nên tìm cách phê bình người khác, nhưng thật ra những người đó sẽ chỉ chuốc lấy khinh bỉ và những lời nịnh hót giả hình.

Người ta sẽ không còn thấy những người để cho một tạo vật chiếm lấy trái tim mình, và để ve vãn em đó, sẽ bỏ mặc các em khác, không còn những người vì ưa sống an nhàn, đã coi thường bổn phận nghiêm ngặt về hộ trực, những người vì một sự vị nể vô hiệu quả, đã bỏ qua không cảnh cáo những em đáng phải được cảnh cáo. Với tình yêu chân thật, người ta sẽ chỉ tìm vinh hiển của Thiên Chúa và phần rỗi của các linh hồn. Chính khi tình yêu suy giảm đi, không gì có thể tiến hành tốt nữa. Tại sao lại muốn thay thế đức ái bằng sự nguội lạnh của nội quy? Tại sao các Bề Trên bỏ bê không tuân giữ những luật lệ sư phạm mà Don Bosco đã dạy họ? Tại sao đã dần dần thay thế phương pháp dự phòng các sự với cảnh giác và tình thương, bằng một phương pháp ít nặng nhọc hơn và rảnh tay hơn đối với các vị chỉ huy, đó là phương pháp chỉ có việc ra lệnh? Các lệnh này được hổ trợ bởi các hình phạt, sẽ chỉ nhúm lên những hận thù và sinh ra những sự bất mãn; rồi nếu người ta không áp dụng những lệnh này thì sẽ sinh ra sự khinh khi quyền bính và sẽ kéo theo những sự mất trật tự rất nghiêm trọng.

Những điều này nhất định xẩy ra khi không còn sự thân tình. Nếu người ta muốn Nguyện Xá tìm lại được hạnh phúc xưa kia, thì phải lập lại phương pháp cũ, cha Bề Trên phải luôn sẵn sàng lắng nghe những vấn đề hoặc những than phiền của các em: ngài phải luôn để mắt trông chừng hạnh kiểm của các em với tình cha; ngài phải hết lòng lo tìm lợi ích tinh thần và vật chất của những người mà Chúa Quan Phòng ủy thác cho Ngài.

Khi đó lòng các em không còn khép kín nữa, và một số những nhóm đóng kín tai hại sẽ biến mất. Chỉ cảnh vô luân thường mới cần có những Bề Trên khắc nghiệt. Thà liều mình đuổi một em vô tội ra khỏi nhà, chẳng thà để lại một em gây gương xấu. Các thầy hộ trực phải coi đó là bổn phận nghiêm ngặt báo cáo cho các Bề Trên biết tất cả những gì có thể gây nên một sự xúc phạm đến Chúa.

Lúc đó, cha hỏi người cựu học sinh:

  • Đâu là phương tiện tốt nhất để làm cho sự thân tình đó, tình yêu đó, và sự tin tưởng đó khởi thắng.
  • Tuân giữ luật nhà cho chặt chẽ.
  • Không cần gì khác nữa sao?
  • Món ăn ngon nhất của bữa ăn là một nét mặt nhân hậu.

Khi người cựu học sinh của cha còn đang nói như thế cha cảm thấy khó chịu bởi nhìn thấy các em chơi. Dần dần cha cảm thấy một sự chán nản ghê sợ đè nặng trên cha càng ngày càng khó chịu nổi, cho tới mức không kham được nữa, cha giật mình và tỉnh lại.

Cha cảm thấy mình đang đứng gần gường của mình. Hai cẳng của cha sưng lên và đau đớn, đến nỗi cha không còn có thể đứng thẳng được nữa. Vì đêm đã khuya lắm, cha đặt mình lên gường với quyết định là sẽ viết mấy dòng này cho các con yêu dấu của cha.

Cha không muốn có những giấc mơ như thế. Nó làm cha mệt lắm.

Ngày hôm sau, cha đau nhừ cả người, mong cho tới chiều tối sẽ có thể nghỉ ngơi. Nhưng rồi vừa nằm xuống, cha lại bắt đầu mơ. Trước mặt cha là sân chơi: cha nhìn thấy các em hiện nay ở Nguyện Xá, và lại thấy người cựu học sinh hôm qua. Cha hỏi anh ấy:

  • Những điều anh đã nói với cha, cha sẽ chuyển cho các Salêdiêng của cha, nhưng cha phải nói gì với các thiếu niên của Nguyện Xá.

Anh ấy trả lời:

  • Các em hãy nhận biết các Bề Trên, các thầy dạy và các thầy hộ trực của các em đang tận tụy chịu cựu nhọc và làm việc vì thương yêu các em; nếu không vì lợi ích của các em, các ngài đâu có phải chấp nhận bao nhiêu hy sinh như thế? Các em nên nhớ rằng khiêm nhường là nguồn mạch mọi sự an lành. Các em hãy tập chịu đựng các thói xấu của người khác, bởi vì không có sự toàn hảo ở trần gian này. Sự toàn hảo chỉ có trên Thiên đàng. Các em hãy chấm dứt những lời phê bình, vì phê bình chỉ làm cho lòng người thêm giá lạnh. Và trên hết các em hãy ra sức sống trong ân sủng của Thiên Chúa. Ai không bình an với Chúa, cũng sẽ không bình an với bản thân mình và sẽ không sống bình an với người khác.
  • Anh nói như vậy là có một số thiếu niên của cha không được bình an với Chúa chăng?
  • Đó là nguyên nhân chính của nhiều nguyên nhân sinh ra tinh thần xấu mà cha đang tìm cách chữa trị, nhưng không nên bàn đến ở đây lúc này.
  • Quả vậy, chỉ có ai có điều kín phải giữ mới sợ người khác biết và mới tỏ ra thiếu tin tưởng, bởi vì nếu người khác biết thì họ sẽ mắc cở và mất tín nhệm. Nếu tâm hồn họ không được bình an với Chúa, họ sẽ xao xuyến và bất an, sẽ vâng lời cách khó lòng và động một tí là nổi xung. Họ có cảm tưởng mọi điều đều hỏng cả, vì họ thiếu tình thương, họ có cảm tưởng là các Bề Trên không thương yêu họ.
  • Nhưng anh bạn không thấy con số những lần đi xưng tội và rước lễ ở Nguyện Xá sao?
  • Thưa có, các em xưng tội nhiều lắm, nhưng một điều thiếu hẳn nơi việc xưng tội của nhiều em, là những quyết tâm vững chắc. Các em xưng tội rồi lại tái phạm những tội lỗi đó, cũng lại những dịp tội như trước, những thói quen xấu, những tội không vâng lời như trước, và những tội bỏ việc bổn phận như trước, và các em cứ sống như thế nhiều tháng nếu không nói là nhiều năm. Một số các em cứ sống như thế cho tới năm thứ năm trung học.

Đó là những sự xưng tội không sinh ích gì hoặc gần như thế, cho nên việc xưng tội không mang lại bình an. Nếu một em bị gọi ra trước tòa Chúa trong tâm trạng đó, tình cảnh rất đáng ngại cho em.

  • Có nhiều em này ở Nguyện Xá không?
  • Ít thôi, so với con số lớn lao các em trong nhà. Cha xem này!

Và anh ấy trỏ cho cha xem.

Lần lượt cha nhìn và thấy các em đó. Các em đó chỉ là con số nhỏ, nhưng cha thấy nơi những em đó những điều làm cha đau lòng lắm. Cha không muốn ghi lên giấy này, nhưng khi trở về  cha sẽ sớm cho các đương sự biết những điều đó. Cha chỉ nói với các con rằng đã tới lúc phải cầu nguyện và lấy những quyết tâm vững vàng, phải quyết định không phải bằng lời nói nhưng bằng hành động và chứng tỏ rằng những Comollô, những Dôminicô Saviô, những Beuccô và những saccardi chưa biến dạng khỏi chúng ta. Rồi cha hỏi anh bạn của cha một câu cuối cùng:

  • Con không còn điều gì khác cần nói với cha chứ?
  • Cha hãy giảng cho mọi người, lớn cũng như bé đừng khi nào quên rằng mình là con cái của Mẹ Maria Phù Hộ. Chính Mẹ đã tụ tập họ lại đây để tránh những hiểm nguy của thế gian ,để họ yêu thương nhau như anh em, và dùng hạnh kiểm tốt lành của mình để làm vinh hiển cho Chúa và vinh dự cho mình. Chính Mẹ là Đấng đã dùng vô vàn ơn lạ lùng để lo bữa ăn và phương tiện học hành cho họ. Họ nên nhớ rằng ngày lễ Mẹ của họ đã gần, và với sự trợ giúp của Mẹ, họ phải lo phá đổ bức tường nghi ngờ mà ma quỷ đang khai thác một cách khéo léo để gây tai hại cho một số linh hồn.
  • Chúng ta có thể thành công trong việc phá đổ bức tường ngăn cách này không?
  • Chắc chắn là có thể, miễn là lớn cũng như bé đều sẵn sàng chịu lấy những hy sinh hãm mình nho nhỏ vì lòng mến Mẹ Maria và hãy thực hành những gì mà con đã nói với cha.

Cha tiếp tục nhìn các em, và khi thấy mấy em đang đi vào con đường hư mất đời đời, cha thấy đau nhói trong tim quá đến nỗi làm cha thức dậy.

Cha còn muốn kể cho các con nghe nhiều điều quan trọng mà cha đã chứng kiến nhưng thời giờ không cho phép và cũng không tiện kể ra đây.

Cha xin kết thúc: Các con biết ông già đáng thương này đã hy sinh trọn cuộc đời mình cho các thiếu niên yêu quý của mình, ông chờ đợi gì nơi các con? Chỉ một điều này thôi, đó là theo mức có thể, những ngày hạnh phúc của Nguyện Xá xưa hãy lại tươi nở hôm nay! Những ngày của thân ái và của sự thông cảm và chịu đựng nhau vì lòng mến Chúa Giêsu Kitô, những ngày của tâm hồn cởi mở, trong trắng và đơn sơ, những ngày của bác ái và của niềm vui chân thật cho mọi người.

Cha cần được các con an ủi cha bằng hy vọng và bằng sự các con hứa sẽ làm tất cả những gì cha ước ao cho lợi ích linh hồn các con. Các con chưa hiểu thấu hạnh phúc của các con khi được nhận vào Nguyện Xá. Trước mặt Thiên Chúa, cha khẳng định với các con rằng: chỉ cần một em thiếu niên vào ở một nhà Salêdiêng, là lập tức Đức Mẹ sẽ lãnh nhận che chở em ấy cách đặc biệt. Chúng ta hãy đồng ý với nhau: ước gì đức bác ái của những người vâng phục, hãy làm cho tinh thần của Thánh Phanxico Salê ngự trị giữa anh em!

Các con yêu quý của cha, đã gần tới lúc cha phải từ biệt các con để đi vào cõi vĩnh cửu của cha. Bởi vậy: hỡi các cha, các thầy, các thiếu niên rất yêu dấu của cha, cha ước ao thấy các con đi trên con đường mà chính Chúa muốn các con tiến bước. Cha đã gặp Đức Thánh Cha hôm thứ sáu mồng 9 tháng 5 vừa qua. Ngài hết lòng gởi cho các con phép lành của Ngài về ý đó.

Ngày lễ Đức Maria Phù hộ, cha sẽ có mặt giữa chúng con để cùng nhau nhìn lên bức ảnh của Mẹ rất từ ái của chúng ta. Cha muốn ngày lễ lớn này phải được cử hành rất long trọng và Don Lazzero và Don Marchisio hãy lo sao để có sự vui vẻ cả ở nhà ăn nữa. Lễ Đức Maria Phù Hộ phải là khúc nhạc mở màn cho cuộc lễ vĩnh cửu mà một ngày kia chúng ta sẽ cùng nhau cử hành trong tình hiệp nhất trên Thiên đàng.

Người cha rất thương yêu của chúng con trong Chúa Giêsu Kitô

GIOAN BOSCO LINH MỤC

  • HỆ THỐNG GIÁO DỤC DỰ PHÒNG (trong Hiến luật Salêdiêng

“Trong cuộc đời tiếp súc với thanh thiếu niên của Nguyện Xá đầu tiên. Don Bosco được Đức Maria. Vị thầy của mình hướng dẫn, đã sống một kinh nghiệm thiêng liêng và giáo dục mà ngài gọi là “Hệ  Thống Giáo Dục Dự Phòng” đối với ngài đó là lòng yêu thương tự hiến cách nhưng không, kín múc từ lòng yêu mến của Thiên Chúa, Đấng tiên liệu mọi sự cho mọi tạo vật bằng sự Quan Phòng, hằng hiện diện bên cạnh chúng, và rộng ban sự sống Ngài để cứu vớt chúng” (Hiến  luật Dòng Salêdiêng,20)

“Hệ thống này hoàn toàn dựa trên lý trí, tôn giáo và lòng thương mến: không nại tới cưỡng bách, nhưng nại tới những tiềm năng của lý trí, của cõi lòng và của khát vọng Thiên Chúa, mà mỗi người đều mang trong tâm khảm mình”.

“Hệ thống này liên kết các nhà giáo dục và thanh thiếu niên vào một kinh nghiệm sống duy nhất, trong bầu khí gia đình, tín nhiệm và đối thoại.”

“Noi theo sự nhẫn nại của Thiên Chúa, chúng ta (các nhà giáo dục) găp gỡ thanh thiếu niên trong chính tình trạng tự do của chúng, chúng ta (các nhà giáo dục) sống sát chúng để giúp chúng làm chín muồi những xác tín vững chắc và dần dần biết lãnh lấy trách nhiệm trong tiến trình tế nhị của sự tăng trưởng nhân bản trong đức tin” (HL Dòng Salêdiêng, 38)

  • VIỆC HỘ TRỰC (trong Hiến Luật Salêdiêng)

“Việc thực hành Hệ Thống Giáo Dục Dự Phòng đòi chúng ta (các nhà giáo dục) một thái độ căn bản: có thiện cảm và ý muốn tiếp xúc vói thanh thiếu niên.”Được ở đây với các con, cha cảm thấy hạnh phúc, đời cha chính là để ở với các con” (Don Bosco MB IV, 654)

“Với tình huynh đệ, chúng ta (các nhà giáo dục) ở giữa thanh thiếu niên bằng sự hiện diện tích cực và thân tình. Sự hiện diện này nâng đỡ mọi nỗ lực tăng trưởng trong sự thiện của chúng và khích lệ chúng tự giải thoát khỏi mọi thứ nô lệ, hầu sự dữ khỏi thống trị bản tính yếu đuối của chúng’

“sự hiện diện này mở đường cho chúng ta (Các nhà giáo dục) hiểu biết cách sinh động thế giới tuổi trẻ và liên đới với mọi khía cạnh chân chính thuộc tính năng động của tuổi trẻ” (HL Dòng Salêdiêng, 39)

MỤC LỤC

Nhập đề

Vài nét tiểu sử về Gioan Bosco

  • CẢM HỨNG
  • MỘT GIẤC MƠ
  • NHỮNG TIẾP XÚC ĐẦU TIÊN VỚI CÁC THIẾU NHI, ANH CHÀNG LEO DÂY MÚA RỐI
  • THỰC HÀNH
  • ĐÓN NHẬN BATÔLÔMÊÔ GARELLI
  • GẶP GỠ MICHEL MAGON
  • Tại nhà ga Carmagnola
  • Michel và Don Bosco
  • Sự can thiệp của cha phó
  • Một tên du đãng dễ thương
  • GẶP DÔMINICÔ SAVIÔ
  • Don Cuglierô khen ngợi cậu Dominico Savio
  • Gặp gỡ lần đầu tiên.
  • Một tấm vải tốt
  • Dôminicô Saviô được thâu nhận.
  • DON BOSCO VỚI CÁC THIẾU NIÊN PHẠM PHÁP
  • LÝ THUYẾT
  • HỆ THỐNG DỰ PHÒNG TRONG VIỆC GIÁO DỤC TUỔI TRẺ
  • Bản chất của phương pháp giáo dục dự phòng và tại sao nó phải được chuộng hơn các phương pháp khác
  • Áp dụng phương pháp dự phòng
  • Vài lời về hình phạt
  • BỨC THƯ TỪ RÔMA NGÀY 10 THÁNG 5 NĂM 1884 VỀ TÌNH HÌNH NGUYỆN XÁ
  • HỆ THỐNG GIÁO DỤC DỰ PHÒNG
  • VIỆC HỘ TRỰC
  • Nguồn: http://thuviensdb.org/index.php/he-thong-du-phong/item/107-nh-ng-trang-su-ph-m-c-a-don-bosco
 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Tám 17, 2021 in Các Thánh, Giáo Dục

 

Charles de Foucauld: Sự thất bại thánh thiện của người sắp được phong thánh

 ĐGM Richard Antall / Lm Fx. Lê Văn Nhạc chuyển ngữ 

Ngày 14/08/2021

Charles de Foucauld: Sự thất bại thánh thiện của người sắp được phong thánh

Hình Cha Foucauld vào năm 1916

TGPSG — Cuộc sống của Chân Phước sắp được phong thánh Charles de Foucauld thách đố ý tưởng thành công của chúng ta. (ĐGM. Richard Antall)

Cách nay 53 năm, khi tôi đang học lớp Tám thì lần đầu tiên đọc được cuốn sách “Những vị anh hùng của Chúa” do Henri Daniel-Rops viết về Cha Charles de Foucauld. Cuốn sách này viết về 10 ông và 1 bà – được tác giả gọi là “những nhà mạo hiểm của Chúa”; họ đã sống… đã đau khổ… đã chết để gấp rút hoàn thành – càng nhiều càng tốt trên mặt đất này – điều nguyện ước của mọi Kitô hữu ngỏ cùng Cha trên trời: “Xin cho Nước Cha trị đến”.

Daniel-Rops quả là đã đạt được đích điểm tốt (tiếng Tây Ban Nha gọi là “buena punteria”). 3 trong 5 vị anh hùng – chưa được phong thánh vào thời tác giả viết sách này – đã được nâng lên tôn kính trên bàn thờ: Thánh Junipero Serra, Thánh Đamiêng ở đảo Molokai, và giờ đây Chân phước Charles de Foucauld mà ngày phong thánh chưa được thông báo.

Trong tất cả các vị anh hùng được viết trong cuốn sách ấy, có lẽ tử tước Charles de Foucauld là người có một cuộc sống kỳ lạ nhất. Anh được sinh ra tại Strasbourg, nước Pháp, trong một gia đình có mối liên hệ lịch sử với Thánh nữ Gioanna thành Arc và Thánh Lu-y, cũng như mối liên hệ với những vị đã chết vì đức tin vào thời Cách mạng Pháp.  

Tuy nhiên, con đường lên thiên đàng của anh gặp nhiều nẻo ngoằn ngèo và khúc ngoặt. Mẹ của anh là một tín hữu Công giáo đạo đức, nhưng đã qua đời khi Foucauld mới lên 8 tuổi, vài tháng trước cái chết của người cha. Anh được bà ngoại nuôi dưỡng; bà rất chiều chuộng anh và em gái của anh.

Sự chiều chuộng ấy đã trở thành yếu đuối, bởi vì cháu trai của bà đã trở thành một người đàn ông hết sức bướng bỉnh, ngay cả trong quân đội Pháp, là nơi anh đã trở nên giàu có và, như Daniel-Rops viết, “một trung úy khoác lác, biếng nhác và ăn chơi trác táng”. Chàng đã mất đức tin khi ở “tuổi teen” và mất ông ngoại không bao lâu sau khi được thừa kế một gia tài to lớn.

Trong “Nặc danh Tửu đình” có câu: “sức mạnh của bạn cũng chính là sự yếu đuối của bạn” – và ngược lại. Tôi nghĩ rằng Foucauld là một ví dụ điển hình cho điều đó. Anh dung dưỡng bản thân mình đến cực độ, nổi tiếng vì kêu những món thịt béo rượu ngon khi chàng ở trường kỵ binh và bị các bạn sinh viên đồng liêu đặt cho cái tên là “con heo”. Một trong các anh em họ của chàng nhớ lại: chàng Charles bụ bẫm đã là người gây khiếp sợ ở bàn ăn tráng miệng tại buổi tiệc gia đình.

Nhưng chàng trẻ tuổi này – hết sức thông minh mà lại biếng nhác đến mức bị xếp hạng học lực yếu kém – đã được Chúa hoán cải cách lạ lùng. Bị thuyên chuyển đến Sahara, và luôn gây rối với lối sống xấu xa tai tiếng, Foucauld đem lòng yêu thương một cô gái Bắc Phi, khi tham chiến chống lại cuộc nổi dậy ở Algeria, thuộc địa của Pháp.

Chàng âm thầm thám hiểm Morocco, cải trang như một rabbi Do thái, đã ghi chép và xuất bản một bài tường thuật khiến chàng được giải thưởng và trở nên nổi tiếng trong số các nhà địa lý ở Pháp. Tuy nhiên, cuộc giao tiếp với Do thái giáo và Hồi giáo – trong các chuyến du hành ấy – đã ghi dấu ấn trên bản thân chàng suốt đời.

Sau một thời gian ở Paris, chàng trở lại phục vụ tại Châu Phi, rồi vỡ mộng với quân đội vì vấn đề chính trị. Thiên Chúa đã có chàng khi Ngài cần đến chàng. Sau này, chàng hết sức kinh ngạc trước cách thức Chúa sử dụng “nỗi cô đơn, cảm xúc, ốm đau bất ngờ của những người thân yêu, những cảm giác sâu đậm mãnh liệt và cuộc trở về Paris thật tình cờ khi một biến cố đáng ngạc nhiên xảy ra.”

Qua lời cầu nguyện, gương sáng và sự thúc đẩy của cô em họ Marie de Bondis yêu dấu, Foucauld đã trở lại với đức tin. Cô em họ này đã sắp xếp một cuộc gặp gỡ với cha Henri Huvelin ở nhà thờ Thánh Augutinô tại Paris. Foucauld đã đến ‘bàn luận’ về sự mất đức tin của chàng và cha Huvelin đã bảo chàng, “Hãy quỳ xuống và xưng tội!”

“Nhưng con không có đức tin”, “hối nhân” trả lời.

Vị linh mục vẫn chỉ nói: “Hãy xưng tội”. Và chàng trai đã làm theo.

Cha Huvelin hỏi tiếp: “Anh đã ăn sáng chưa?” Chàng trả lời: “Dạ chưa!” – “Vậy thì hãy đi vào nhà thờ ngay lập tức. Thánh lễ đang bắt đầu và hãy rước lễ.” Đấy là điều mà  Foucauld gọi là “rước lễ lần đầu thứ hai của anh”.

Cuộc hành hương kỳ lạ của anh tiếp tục. Phương châm dòng họ quý tộc của anh là “không bao giờ lùi bước”, và Foucauld đã không bao giờ lùi bước trong cuôc tìm kiếm những gì Thiên Chúa muốn anh làm. Chính nỗi niềm không bao giờ thỏa mãn – đã đưa anh vào một lối sống hoang phí và thường là vô luân trước đây – thì nay cũng rõ ràng như thế khi anh lựa chọn sống đến tận cùng ơn gọi tu trì của mình.

Nơi ẩn tu của Cha Charles Foucauld ở Algeria

Anh không bao giờ mãn nguyện với những hy sinh đã làm cho Chúa Kitô. Tên lính xuất ngũ ấy đã vào tu viện Trappist Đức Bà Xuống Tuyết. Sau đó, vẫn khao khát tìm một cách sống khổ hạnh nhiều hơn nữa, anh chuyển sang một đan viện khác ở Syria tại Akbès.

Rồi tâm hồn anh vẫn chưa nghỉ yên ở Syria. Anh muốn sống cuộc đời ẩn dật của Chúa Giêsu ở Nadarét. Anh đã tìm được việc làm ở Dòng các Chị Clara khó nghèo ngay tại Nadarét, trở thành anh làm vườn cho các nữ đan sĩ và dành nhiều giờ để cầu nguyện trước Thánh Thể. Tiếp theo, vẫn chưa được bình an, anh lại trở về Pháp, theo học để lãnh nhận tác vụ linh mục, và đã thụ phong linh mục. Sau đó, Cha Foucauld quyết định trở về châu Phi “như một tuyên úy” cho các binh sĩ Pháp.

Tôi nói “như một tuyên úy”, nhưng không đơn giản chỉ như thế. Cha ước muốn làm một vị ẩn tu giống như các Tổ Phụ Ai Cập trong sa mạc. Nhờ đời sống cầu nguyện và tình huynh đệ ẩn dật tại Beni-Abbès, cha làm chứng cho người Hồi giáo và thầm lặng rao giảng Tin Mừng, chỉ rao giảng bằng sự hiện diện và tình bác ái của Cha. Cha đã mơ ước thành lập một dòng tu “Các Tiểu đệ Thánh Tâm”.

Nhưng ngay cả Béni-Abbès cũng chưa đủ. Một người bạn đã đề nghị với Cha một địa điểm còn hẻo lánh và nghèo khó hơn nữa, đó là Tamanrasset, nơi cha có thể làm quen với bộ lạc Tuareg. Cha đã xây dựng một nơi ẩn tu tại đó và bắt đầu học ngôn ngữ của người Touareg, dịch Tin Mừng ra ngôn ngữ của họ và làm công việc của một học giả biên soạn một từ điển song ngữ và một sách văn phạm, rồi còn làm một bộ sưu tập thi ca bản xứ mà sau này đã được xuất bản. 

Năng khiếu ngôn ngữ của Cha thật là phi thường, nhưng đặc sủng của Cha đã làm cho ngay cả những người Hồi giáo cũng kính trọng ơn gọi của Cha: Họ đã bắt đầu gọi cha là “marabout (vị thánh)” của họ. Cha tin rằng cầu nguyện tôn thờ là nền tảng cho công cuộc loan báo Tin Mừng trong sa mạc.

Khi Thế Chiến I bùng nổ, vài bộ lạc tuyên bố thánh chiến chống lại người Pháp. Quân đội đã thuyết phục cha Foucauld di tản khỏi nơi ẩn tu của cha đến một pháo đài nhỏ, ở đó cha sống một mình nhưng cũng có chỗ ẩn nấp cho những dân làng khác trong trường hợp bị tấn công. Cha đã bị giết chết ở đó do một nhóm lính đến bắt cóc cha, vào ngày 1-12-1916.

Cha chưa bao giờ có được một ai gia nhập cộng đoàn tu trì do Cha đề nghị. Cha cũng chưa bao giờ hoán cải được bất kỳ một ai trong làng trở lại Kitô giáo. Cho dù nổi tiếng với những bài viết về chiêm niệm và suy tư, vào lúc sinh thời cha chưa bao giờ thấy một bài viết đời tu nào của mình được xuất bản: “Dự án” của cha đã thất bại.

ĐGH Bênêdictô 16 gặp dân bộ tộc Tuareg trong dịp phong chân phước cho Cha Foucauld năm 2005

Thật tạ ơn Chúa, khi những thất bại thánh thiện thường lại là những hạt mầm của thành công. Sau khi qua đời, Cha Foucauld mới thấy được các môn sinh của mình. Một cuốn tiểu sử đã được René Bazin viết năm 1921 khiến người ta chú ý đến cuộc sống của vị ẩn sĩ sa mạc này, và cuối cùng nhiều cuốn tiểu sử khác nữa về Cha Foucauld đã được xuất bản.

Một chủng sinh tên là René Voillaume đã đọc cuốn tiểu sử này và xúc động. Cuối cùng Voillaume đã thành lập Cộng đoàn các Tiểu đệ Thánh Tâm và sau đó lập Cộng đoàn Tiểu đệ Tin Mừng. Các nữ môn sinh cũng đã thành lập Cộng đoàn các Tiểu muội Thánh Tâm và Cộng đoàn các Tiểu muội Tin Mừng, là một nhóm tôi đã từng quen biết ở El Salvador.

Mẹ Têrêsa Calcutta có lần đã nói rằng: Thiên Chúa không kêu gọi chúng ta để ta đạt được thành công, nhưng để ta trở thành người có niềm tin. Tôi muốn nói thêm rằng: niềm tin sẽ mang đến thành công thiêng liêng. Giáo hội cần có thêm những thất bại, tương tự như thất bại của Chân Phước Charles de Foucauld, để tất cả chúng ta có thể vững tin nhiều hơn.  

ĐGM Richard Antall (angelusnews)
Lm Fx. Lê Văn Nhạc (TGPSG) chuyển ngữ

Nguồn: https://tgpsaigon.net/bai-viet/charles-de-foucauld-su-that-bai-thanh-thien-cua-nguoi-sap-duoc-phong-thanh-64044

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Tám 14, 2021 in Các Thánh

 

August 11, 2021-Memorial of Saint Clare, Virgin

August 11, 2021-Memorial of Saint Clare, Virgin

Reading I

Dt 34:1-12

Moses went up from the plains of Moab to Mount Nebo,
the headland of Pisgah which faces Jericho,
and the LORD showed him all the land—
Gilead, and as far as Dan, all Naphtali,
the land of Ephraim and Manasseh,
all the land of Judah as far as the Western Sea,
the Negeb, the circuit of the Jordan
with the lowlands at Jericho, city of palms,
and as far as Zoar.
The LORD then said to him, 
“This is the land
which I swore to Abraham, Isaac, and Jacob
that I would give to their descendants.
I have let you feast your eyes upon it, but you shall not cross over.”
So there, in the land of Moab, Moses, the servant of the LORD,
died as the LORD had said; and he was buried in the ravine
opposite Beth-peor in the land of Moab,
but to this day no one knows the place of his burial.
Moses was one hundred and twenty years old when he died,
yet his eyes were undimmed and his vigor unabated.
For thirty days the children of Israel wept for Moses
in the plains of Moab, till they had completed
the period of grief and mourning for Moses.

Now Joshua, son of Nun, was filled with the spirit of wisdom,
since Moses had laid his hands upon him;
and so the children of Israel gave him their obedience,
thus carrying out the LORD’s command to Moses.

Since then no prophet has arisen in Israel like Moses,
whom the LORD knew face to face.
He had no equal in all the signs and wonders
the LORD sent him to perform in the land of Egypt
against Pharaoh and all his servants and against all his land,
and for the might and the terrifying power
that Moses exhibited in the sight of all Israel.

Responsorial Psalm

66:1-3a, 5 and 8, 16-17

R.    (see 20a and 10b)  Blessed be God who filled my soul with fire!
Shout joyfully to God, all the earth;
    sing praise to the glory of his name;
    proclaim his glorious praise.
Say to God: “How tremendous are your deeds!”
R.    Blessed be God who filled my soul with fire!
Come and see the works of God,
    his tremendous deeds among the children of Adam.
Bless our God, you peoples; 
    loudly sound his praise.
R.    Blessed be God who filled my soul with fire!
Hear now, all you who fear God, while I declare 
    what he has done for me.
When I appealed to him in words,
    praise was on the tip of my tongue.
R.    Blessed be God who filled my soul with fire!

Alleluia

2 Cor 5:19

R. Alleluia, alleluia.
God was reconciling the world to himself in Christ,
and entrusting to us the message of reconciliation.
R. Alleluia, alleluia.

Gospel

Mt 18:15-20

Jesus said to his disciples:
“If your brother sins against you,
go and tell him his fault between you and him alone.
If he listens to you, you have won over your brother.
If he does not listen, 
take one or two others along with you,
so that  every fact may be established
on the testimony of two or three witnesses.
If he refuses to listen to them, tell the Church.
If he refuses to listen even to the Church,
then treat him as you would a Gentile or a tax collector.
Amen, I say to you,
whatever you bind on earth shall be bound in heaven,
and whatever you loose on earth shall be loosed in heaven.
Again, amen, I say to you, if two of you agree on earth
about anything for which they are to pray,
it shall be granted to them by my heavenly Father.
For where two or three are gathered together in my name,
there am I in the midst of them.”

Source: https://bible.usccb.org/bible/readings/081121.cfm

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Tám 11, 2021 in Các Thánh

 

Thánh Clara, (St. Clare of Assisi) Ðồng trinh, ngày 11/8

THÁNH CLARA (St. Clare of Assisi)

Ðồng trinh, ngày 11/8

Đây là một trong số các trinh nữ khôn ngoan, đã cầm đèn sáng ra đón Đức Kitô ( ca nhập lễ, lễ các thánh trinh nữ ). Thánh Clara đã cảm nghiệm sâu sắc lời Chúa:” Kìa tân lang là Đức Kitô đã tới, hãy ra nghênh đón Người”( Mt 25, 6 ). Thánh Clara đã sống trọn vẹn ý nghĩa của cuộc sống làm con Chúa và Ngài đã đi tới tuyệt đỉnh các nhân đức.

MỘT CON NGƯỜI. MỘT CUỘC ĐỜI DẤN THÂN VÌ NƯỚC TRỜI:

Thánh Clara được sinh ra trong một gia đình quyền uy, thế giá ngày 16 tháng 7 năm 1194 tại Assise miền Ombrie nước Ý. Mẹ của thánh nhân đã hun đúc con ngay khi Clara còn nhỏ, bà đã giáo dục con về nhân bản, về mặt đạo đức và bằng chính gương sáng của bà. Thân mẫu của thánh nhân đã dạy cho thánh Clara biết cầu nguyện, biết từ bỏ và đức tính nhẫn nhục, kiên trì. Năm 1212, thánh nhân đã tới một vùng quê để ẩn mình, tránh xa tiếng ồn ào và chuyên chăm cầu nguyện. Tại vùng thôn dã này, thánh nữ đã gặp thánh Phanxicô khó khăn và chính thánh Phanxicô đã tận tình giúp Ngài trên đường nhân đức, trên đường nên thánh.Thánh nữ đã cương quyết chống lại sự ngăn cản của cha mẹ, gia đình. Sau cùng thánh nữ được đưa đến đền thờ thánh Đamianô để lập hội các chị tận hiến cho Thiên Chúa. Thánh Phanxicô vẫn tiếp tục hướng dẫn thánh nữ trên đường nhân đức. Thánh nữ Clara đã điều khiển hội Dòng cách ân cần và khôn ngoan.

THÁNH CLARA RA ĐI VỀ VỚI CHÚA:

Với một đời sống luôn lấy Chúa làm cùng đích, thánh nữ Clara đã luôn tâm niệm:” Tất cả cho Chúa, tất cả vì phần rỗi các linh hồn”. Thánh nhân đã sống đời sống thánh thiện và muốn các chị em Dòng mình nên thánh và thánh nữ sau một cuộc đời tận tụy đã ra đi về với Chúa bình an ngày 11 tháng 8 năm 1253 trước sự thương tiếc của mọi người. Năm 1255, Đức Tháh Cha Alexandre IV đã đặt Ngài  lên hàng các thánh đồng trinh. Ngài đúng là:” Người trinh nữ khôn ngoan đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy mất đi”( Lc 10, 42 ).

Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, Chúa đã dìu dắt thánh Clara và soi sáng cho thánh nữ biết yêu chuộng đời sống khó nghèo. Xin nhận lời thánh nữ cầu thay nguyện giúp mà ban cho chúng con được cùng người sống tinh thần nghèo khó và theo chân Đức Kitô để được vào nước trời chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa ( lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Clara ).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Nguồn: http://gplongxuyen.org/tin-tuc/thanh-clara-st-clare-of-assisi-ong-trinh-ngay-118.html

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Tám 10, 2021 in Các Thánh

 

LỄ THÁNH LAURENSO, TỬ ĐẠO

Từ thế kỷ thứ IV, người ta đã mừng lễ kính Ngài với một đêm canh thức trọng thể và từ Roma, việc tôn kính Ngài đã lan khắp Giáo hội rất sớm. Các thánh Ambroise ở Milan, Augustin ở Châu Phi và Maxime ở Turin đều có lưu lại những bài giảng về lễ kính thánh nhân. Và sau thánh Ambroise, thánh Prudence cũng kể lại cuộc tử đạo của thánh nhân (công vụ của Polychrone và các bạn, khoảng năm 550).

Mặc dầu nhiều chi tiết trong cuộc khổ nạn đó mang tính huyền thoại, nhưng lại là nguồn gốc cho các điệp ca trong thần vụ. Thánh Ambroise khi kể lại cuộc tử nạn đó một thế kỷ sau nói rằng thánh Laurent bị thiêu trên một giàn sắt. Xác Ngài được an táng trên đường Tiburtina, nửa thế kỷ sau, hoàng đế Constantin cho xây một thánh đưòng trên mộ Ngài : Đây chính là đại giáo đường thánh Laurent ngoại thành, một trong bảy nhà thờ lớn ở Roma, và là nhà thờ chính trong tám nhà thờ của thành phố Rôma dâng kính thánh nhân.

Chuyện về các hành vi trong cuộc khổ nạn của thánh Laurent kể rằng thánh nhân bị bắt vì không tuân luật thuế quan buộc nộp các tài sản Giáo hội cho chính quyền hoàng đế. Sau khi xin khất lại, Ngài tập hợp những người nghèo khó, ốm đau lại và hai ngày sau, Ngài đưa họ đến trước mặt quan quyền và thưa : “Đây là tài sản của Giáo hội !”.

Thánh nhân liền bị bắt và tra khảo nhiều lần. Ngài đã trả lời các lý hình : “Tôi tôn thờ Thiên Chúa của tôi, tôi chỉ phụng sự một mình Chúa, nên tôi đâu sợ cái tra khảo của các ông”. Bị đặt trên một vỉ sắt dưới để than cháy, Ngài còn quay lại phía lý hình, đùa : “Anh trở tôi được rồi đấy, bên này chín rồi”. Đức giáo hoàng Damase cho khắc trên mộ ngài : “đòn roi, lý hình, lửa thiêu, hình khổ, xích xiềng, tất cả điều thua đức tin của Lôrensô”.

Niềm tin và lòng bác ái của thánh Laurent cũng như đức can đảm anh hùng của Ngài qua nhiều thế kỷ là nguồn cảm hứng cho lời cầu nguyện của Giáo hội, lòng đạo đức của giáo dân, rất nhiều tranh ảnh, thậm chí cả kiến trúc … quả thế, Philippe II, để thực hiện lời hứa với thánh Lôrensô, đã xây Escorial trong tỉnh Madrid, theo dạng thiết kế một giàn sắt nhắc nhớ dụng cụ tra tấn thánh phó tế Lôrensô xưa. Còn thánh Bênado thế kỷ XII thì dâng tu viện Thoronet vùng Var để kính thánh nhân. Thánh Lôrensô được nhắc tới trong lời nguyện Thánh Thể và có tên trong kinh cầu các thánh.

Ðịnh luật chết đi để trổ sinh hoa trái đã được Chúa Giêsu Kitô, Thầy chúng ta, thi hành nêu gương trước. “Không ai có tình yêu lớn hơn kẻ hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”, nếu không có mẫu gương đi kèm theo lời dạy đầy cương quyết của Chúa thì có lẽ chúng ta không màng chi đến việc phải chết đi, phải hy sinh chính mạng sống mình để phục vụ điều thiện hảo của anh chị em. Không hy sinh thì sẽ không có phục vụ đích thực và không phục vụ đích thực thì ta chưa phải là đồ đệ đích thực của Chúa.

Tin Mừng hôm nay dùng hình ảnh hạt giống phải chết đi mới trổ sinh nhiều hoa trái để nhắc cho môn đệ Chúa Giêsu phải biết sống hình ảnh cao cả nhất của việc cho đi là biết chấp nhận chết đi nơi bản thân, biết hy sinh chính mạng sống mình như thánh Lôrensô vì tình yêu Chúa.

“Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24). Theo định luật tự nhiên, để có bông hoa đẹp tươi nở khoe sắc lung linh trên cành, thì nguồn gốc trước kia nó từng là một hạt nhỏ xấu xí, khô lóc. Nhưng khi gặp đất và nước, nó trương lên, nứt nẻ rồi bung ra, ngoi lên mầm sống mới, cây từ từ phát triển đến lúc nở hoa sinh trái. Hạt lúa được gieo vào ruộng bùn cũng phải trương lên, hư thối để mọc lên cây mạ, rồi thành cây lúa tươi tốt và cuối cùng sinh bông hạt trĩu nặng.

Đó là một cuộc đánh đổi tự nhiên mà vô cùng lời lãi. Bởi vì “Gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cr 15, 42-44). Chính Chúa Giêsu đã từ bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, hạ mình đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự, để rồi sinh ơn cứu rỗi, cho muôn người được ơn cứu độ và bước vào sự sống mới.

Chúa Giêsu dùng hình ảnh hạt lúa thật dễ hiểu để áp dụng cho cuộc đời của Người, đồng thời là qui luật chung cho những ai muốn bước theo Ngài. Người chính là hạt lúa được gieo vào lòng đất. Cuộc thương khó và cái chết của Người dẫn tới sự sống bất diệt, để quy tụ dân Do Thái và dân ngoại thành một cộng đoàn đông đảo được hưởng ơn cứu độ.

Trong cuộc đời người Kitô hữu, nếu tôi sẵn sàng chịu bung vẩy trày xước vì lội ngược dòng đời, để sống theo Lời Chúa dạy, chết đi cho những tội lỗi, nết xấu, thì chính Chúa sẽ biến đổi, làm cho tôi được lại sự sống mới, như thánh Phaolô nói : “Đấng cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh làm của ăn nuôi dưỡng, tất sẽ cung cấp dư dật hạt giống cho anh em gieo, và sẽ làm cho đức công chính của anh em sinh hoa kết quả dồi dào (2Cr 9,10).

“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy ; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12, 25-26). Chúa Giêsu quả quyết: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Cái được-mất trong sự bỏ mình hay giữ lấy, Người đã chứng minh bằng luật tự nhiên: “Nếu hạt giống rơi xuống đất không thối đi, nó sẽ chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, nó sẽ nảy sinh hàng trăm những hạt khác”.

Với ý nghĩa này, ta có thể nhận ra lý do phải hy sinh, “chết” đi để được “sống”. Ai chăm lo tìm kiếm lạc thú ở đời này thì sẽ mất đời sống vĩnh cửu. Còn ai dám từ bỏ bản thân vì Chúa và vì Tin Mừng thì sẽ được hưởng sự sống đời đời mai sau. Người môn đệ – “kẻ phục vụ Thầy” cũng phải đi cùng một con đường như Chúa Giêsu để đạt tới vinh quang. Như hạt lúa, chúng ta cũng phải chết đi cho tội lỗi để sinh nhiều bông hạt.

Huệ Minh

Nguồn: https://tuhoisongthanhthe.com/le-thanh-lorenso-tu-dao/

Mời đọc thêm suy niệm tại:

https://www.facebook.com/groups/529714964085650/

10/8/2021

Thứ Ba tuần XIX Thường Niên B. Lễ Thánh Laurensô, phó tế, tử đạo. Lễ kính.

BÀI ĐỌC I: 2 Cr 9, 6-10

“Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng”.

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, ai gieo ít thì gặt ít; ai gieo nhiều thì gặt nhiều. Mỗi người hãy cho theo như lòng đã định, không phải cách buồn rầu, hoặc vì miễn cưỡng: Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng. Thiên Chúa có quyền cho anh em được dư tràn mọi ân phúc: để anh em vừa luôn luôn sung túc mọi mặt, vừa còn được dư dật để làm các thứ việc phúc đức, như đã chép rằng: “Người đã rộng tay bố thí cho kẻ nghèo khó, đức công chính của Người sẽ tồn tại muôn đời”. Đấng đã cung cấp hạt giống cho kẻ gieo và bánh để nuôi mình, thì cũng sẽ cung cấp cho anh em hạt giống dư đầy, và sẽ làm phát triển hoa quả sự công chính của anh em.

Tin mừng: Ga 12, 24-26

24Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.25Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. 26Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.”

Lạy Mẹ Maria,

Bài Đọc I, Thánh Phaolô khuyên các tín hữu Corintô hãy rộng lượng và vui vẻ giúp đỡ cho Giáo Hội Mẹ tại Jerusalem vì Thiên Chúa sẽ rộng lượng cho lại họ cách dư đầy. Khi rộng lượng cho đi, họ cũng đang xây dựng cho họ kho tàng vĩnh cửu đời sau.

Chúa Giêsu muốn nêu bật một nguyên lý bất di dịch của cuộc sống: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.

Nguyện xin Mẹ giúp con:

Xác tín Thiên Chúa có uy quyền trên tất cả cuộc sống của con. Người không những ban cho con của ăn để sống mà còn dư thừa để làm việc phúc đức.

Ý thức con chỉ là người quản lý những ơn lành của Thiên Chúa. Người muốn con luôn rộng lượng cho đi thì con không được giữ lại; chắc chắn cuộc sống vĩnh cửu sẽ chờ đợi con mai sau.

Con nguyện ước con người hôm nay biết trao phó mạng sống của mình cho Thiên Chúa trong cơn đại dịch Covid một cách vui vẻ bình an để Người tự do quyết định “ai ra đi, ai ở lại”!

Lời nguyện nhập lễ, lễ Thánh Laurensô, phó tế, tử đạo.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, chính vì được tình yêu Chúa nung nấu, thánh phó tế Laurensô đã trung thành phục vụ và đạt tới phúc tử đạo vinh quang. Xin cho dân Chúa biết thực hành những điều Người dậy và noi gương Người mà yêu mến Chúa và anh em .

Một Nắng Hai Sương

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Tám 10, 2021 in Các Thánh